Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đón mừng Xuân Di Lặc

24/01/201205:02(Xem: 12548)
Đón mừng Xuân Di Lặc

Người Phật tử Việt Nam cũng có tâm lý chiêm ngưỡng, tônkính Phật Di Lặc và Ngài trở thành biểu tượng cho sự mong cầu an vui, thịnhvượng dài lâu trong tâm khảm của lòng mình…

16.jpg

Mùa xuân là mùa đầu tiên trong năm, mùa khởiđầu cho muôn loài thay da đổi thịt, cây cối đều đâm chồi nảy lộc, vạn vật đổithay, tràn trề sức sống mãnh liệt. Con người vì thế háo hức đón chào mùa xuân,cũng là đón mừng mùa xuân Di Lặc, với niềm tin Đức Di Lặc thị hiện ở đời vớinhững điều tốt lành sẽ đến với mọi người, mọi nhà.

Kinh DiLặc Thượng sinh,kinh Di lặc hạ sinhthì cho rằng Ngài xuất thântrong một gia đình Bà la môn, sau làm đệ tử Phật, nhập diệt trước Phật, dùngthân Bồ tát trụ ở cõi trời Đâu Suất thuyết pháp giáo hóa các vị trời cõi này.Theo truyền thuyết, Bồ tát vì muốn giáo hóa chúng sinh, nên không ăn thịt từlúc mới phát tâm; do nhân duyên ấy mà Ngài có tên là Từ Thị. Bản kinh ĐạiNhật Sớ (1), Bồ tát Từ Thị ấy lấy chữ Từ trong Tứ vô lượngtâm của Phật làm đầu. Lòng từ đó sinh ra từ chủng tính Như Lai, khiến hết thảychúng sinh trong thế gian này không mất hết Phật tính. Và Đức Thế Tôn từng thọký rằng hết thời kỳ tuổi thọ con người là 4.000 tuổi, ước vào khoảng 57 tỷ 60 triệunăm nữa, lúc ấy Bồ tát hạ sinh xuống cõi này thành Phật dưới cội Long Hoa, chialàm 3 hội thuyết pháp. Do ý nghĩa Ngài thay Phật thuyết giáo nên gọi Bồ tát làNhất sinh Bổ xứ, Bồ tát Bổ xứ, Bổ xứ tát đỏa. Khi Ngài thành Phật thì gọi là DiLặc Như Lai, Phật Di Lặc.

Theo nhưý nghĩa nói trên, chân dung của Ngài, phần lớn được các chùa thờ phụng bằnghình ảnh Di Lặc miệng cười tươi, bụng phơi ra; có khi còn có lục tặc hài nhiđeo quanh mà vẫn thản nhiên, tự tại vô cùng. Thế nên, Phật tử chúng ta có tâmlý yêu thích chiêm ngưỡng Ngài, nhất là vào những ngày đầu xuân trong ý nghĩa“tống cựu nghinh tân”, xóa bỏ những điều xấu xa, không may mắn trong năm cũ, nỗlực hành thiện để đón chào năm mới với bao điều tốt đẹp.

Hìnhtượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ainhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.Ngày đầu tiên của năm mới mà có được cảm nhận hân hoan, hiền thiện của chấtliệu từ bi hỷ xả như thế thì không gì phúc lạc bằng, không gì ấn tượng hơn đốivới niềm tin vào Tam bảo, đối với niềm tin lẽ sống của người biết sống đạo.Huống chi, bản chất người học đạo vốn là những người biết hướng tâm sống theonếp sống hiền thiện, chân chất, tùy hỷ với mọi người, yêu thích mọi loài, đầunăm lên chùa lễ Phật, hướng nghĩ về Ngài, phẩm tính Phật Di Lặc “Từ thị” trongmình lại càng dễ hiển lộ ra bên ngoài. Do vậy, tâm tính chúng ta lại càng vuihơn, hạnh phúc nhiều hơn khi tiếp xúc với mọi người trong giờ phút hiện tại,bây giờ và tại đây.

Rõ ràng,mỗi khi con người sống với tâm hiền thiện, có chánh tín vào nếp sống đạo, có hỷlạc trong việc thực hành pháp thiện, từ bỏ pháp ác, thì đây chính là niềm tintrong một tương lai gần Đức Di Lặc sẽ thị hiện. Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Niđã từng xác tín rằng chính nếp sống hiền thiện, hướng thiện của người học đạo,hành đạo, chứng đạo là cơ sở, là nền tảng đón chào Ngài ra đời trên thế giannày.

Bản kinhChuyển luân Thánh vương Sư tử hống (Cakkavatti-sìhanàda-suttanta),Trường Bộ 1 cho rằng nhân duyên Đức Phật Di Lặc thị hiện hoàn toàn khácvới Đức Thích Ca Mâu Ni đản sinh ra giữa ở cõi đời ô trược, với với một tâm địavô cùng phức tạp, tham ái nặng nề. Trong khi đó, Đức Phật Di Lặc chỉ thị hiệnvào lúc con người có một đời sống đạo đức hướng thượng, con người biết kết nốiyêu thương, sống chân thật, hoan hỷ với nhau chứa chan tình người. Như vậy, sựhiện thân của Đức Phật Di Lặc là biểu trưng cho một nếp sống đạo đức hướngthiện, thuần tịnh, mà đỉnh cao là hướng tâm giải thoát.

Nói mộtcách dễ hiểu, bất cứ ai được sinh ra, lớn lên, trưởng thành đều mong cầu đượcsống hạnh phúc, đầy đủ vật chất, sức khỏe dồi dào, sống lâu trường thọ, và trítuệ minh mẫn. Quan trọng hơn là người đó cần thể hiện một đời sống tâm linhthánh thiện, giàu chất liệu yêu thương được thể hiện qua tinh thần từ bi hỷ xảtrong đời sống thường nhật. Do đó mỗi khi người Phật tử háo hức đón chào xuânDi Lặc, mong cầu Phật Di Lặc đản sinh có nghĩa trong tâm thức họ ước nguyệnsống thiện lành, từ bỏ ác pháp, thực hành Chánh pháp trong niềm hỷ lạc vô biên.

Đâychính là điểm cốt lõi của bản kinh này, cũng là thâm ý của chư Phật muốn khuyếncáo người Phật tử đón xuân, mừng xuân và căn bản nhất là sống với “mùa xuânthường tại” quanh năm suốt tháng, khi tâm thức thuần tịnh, không nhiễm ô, tuổithọ sẽ dài ra. Ngược lại con người sẽ khổ đau khi rong ruổi theo mùa xuân vậtlý với sự mong chờ được hưởng thụ và đắm say dục lạc thế gian, tràn đầy thamái. Tuổi thọ con người sẽ giảm đi, hẳn nhiên khổ đau và đọa lạc sẽ ập đến.

Phậtdạy, con người là chủ nhân ông của nghiệp, là người thừa tự nghiệp. Do đó conngười tự quyết định đời sống hạnh phúc hay khổ đau của chính mình. Một ngườithân cứ làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ về điều ác thì cấp độ khổ đau theo đósẽ gia tăng mãi, đồng nghĩa tuổi thọ đi xuống điểm tận cùng. Chỉ khi nào conngười nhận chân sự nguy hại của một đời sống bất thiện, và khởi tâm sống vớiđiều thiện, hiếu kính với Sa môn, tôn trọng bậc trưởng thượng trong gia đình,thực hành chánh pháp thì sự nguy cơ khổ đau sẽ được giảm thiểu và tuổi thọ bắtđầu tăng trưởng trở lại:

“Nàycác Tỳ kheo, đến một thời kỳ, do nhân làm ác hạnh, tuổi thọ loài người chỉ cómười tuổi,… rồi các loài hữu tình suy nghĩ vì chúng taọ nhân bất thiện nên bàcon ta giết hại nhau như vậy. Chúng ta hãy làm các điều thiện. Do hành thiệnnên được tuổi thọ được tăng thịnh, sắc đẹp tăng trưởng. Vì tuổi thọ được tăngthịnh, sắc đẹp tăng trưởng nên tuổi thọ loài người chỉ 10 tuổi nhưng con của họsẽ thọ đến 20 tuổi. Rồi suy nghĩ vậy chúng ta làm việc thiện nhiều hơn nữa, sốngđúng 10 thiện pháp, hiếu kính với mẹ cha, lễ lạy các vị Sa môn, Bà la môn, cungkính các vị cầm đầu trong gia đình… con cái họ sẽ lên đến 40 tuổi, 80 tuổi… chođến khi tuổi thọ loài người lên đến bốn vạn tuổi và các người con lên đến támvạn tuổi…

buddha.jpg

Nhờ nỗlực sống hiền thiện, lại được xác tín bởi niềm tin bất động đối với Tam bảo,kết quả sắc đẹp, tuổi thọ kéo dài cho đến khi nào mọi người trở nên hiền hòa,an lạc, gia đình hạnh phúc, xứ sở phồn vinh, thế giới hòa bình thực sự… Bấy giờtuổi thọ của con người có thể lên đến 8 vạn tuổi, vua Chuyển luân Thánh vươngsẽ xuất hiện, dùng Chánh pháp để an dân, khiến cho cả thế gian này thái bình,thịnh trị vững bền. Chính thời điểm này, Đức Phật Di Lặc cũng ra đời và chuyểnpháp luân, khiến cho ai cũng an trú hạnh phúc trong giáo pháp của Ngài:

Bấy giờ có vị Chuyển luân Thánh vương tên là Sankha rađời, là vị Pháp vương lấy Chánh pháp trị nước, chinh phục bốn thiên hạ, cai trịcác quốc độ, có đủ bảy món báu. Vị ấy vì quả đất này cho đến hải biên, dùngChánh pháp trị quốc, không dùng trượng, không dùng kiếm. Này các Tỷ kheo,khi tuổi thọ loài người lên đến tám vạn tuổi, có Thế Tôn tên là Metteyya sẽ rađời, là vị A la hán, Chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải,Vô thượng sĩ, Điều ngự Trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Vị này tự mìnhbiết, chứng, và tuyên thuyết trên quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạmthiên giới; thế giới này gồm Sa môn, Bà la môn, loài Trời, loài Người. Vị nàysẽ thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủthanh thịnh và tuyên thuyết đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh nhưTa hiện nay thuyết pháp. Vị này sẽ có khoảng vài ngàn vị Tỷ kheo Tăng đoàn nhưTa hiện nay có khoảng vài ngàn vị Tỷ kheo Tăng đoàn”.

Rõ ràng,sự kiện Đức Chuyển luân Thánh vương và Đức Phật Di Lặc ra đời giữa thế gian nàynhư kinh điển ghi lại là câu trả lời xác tín cho vấn đề tại sao chúng ta phảithực thi nếp sống hiền thiện, sống đúng luật nghi, có chánh kiến và trang trảilòng từ bi hỷ xả đến với mọi người. Tại đây, loài người không còn khởi tâmtham, sân, si trong khi hành xử giữa con người với con người, con người với xãhội, con người với thiên nhiên, môi trường sống. Như vậy, ý nghĩa đón mừng PhậtDi Lặc đản sinh nhân dịp Xuân về Tết đến là thông điệp sống theo nếp sống hướngthượng, trên hết là hướng đến mục tiêu giải thoát khổ đau giữa cuộc đời đầybiến động này.

Đó cũnglà con đường sống của Phật giáo xưa nay hướng đến. Nói một cách cụ thể, mỗi cánhân hiện hữu ở đời phải biết thực thi nếp sống đạo “Ở trong nhà thì hiếuthảo với mẹ cha, ra ngoài đường thì phải biết giúp nước hộ dân, khi ngồi mộtmình phải biết tu thân” (2). Lời dạy trên chỉ cho chúng ta tự thiết lập một nếpsống đạo đức nhân sinh, được xây dựng trên nền tảng hiếu thảo mẹ cha, hòa thuậnvới bà con, biết sẻ chia, giúp đỡ mọi người trong từng hoàn cảnh cụ thể, trênhết là tu tâm dưỡng tánh để tự điều chỉnh bản thân thích ứng với mọi điều kiệnsống mà hành xử cho đúng đạo. Cho nên, mỗi cá nhân hiện hữu phải thường xuyênchánh niệm, sống đúng luật nghi, không ngừng nỗ lực làm thiện, lấy trí tuệ làmsự nghiệp.

Có như vậy, khi bạn làm gì điều gì, cũng sanh tâm hoanhỷ như Phật từng xác tín trong kinh Tăng Chi: “Trước khi làm thiệnviệc gì, chúng ta cũng sanh tâm hoan hỷ, trong khi làm việc thiện gì cũng sanhtâm hoan hỷ, sau khi làm việc thiện gì cũng sanh tâm hoan hỷ”. Đây cũng làcơ sở mọi người trên hành tinh này cùng nhau nỗ lực kiến tạo một thế giới anlạc mà Phật Di Lặc thị hiện. Chúng ta có quyền ước nguyện và cùng nỗ lực hướngđến xây dựng thế giới hạnh phúc ngay từ bây giờ

Thích PhướcĐạt

(1) Xem Kinh Trường Bộ, q.2, Đại tạng kinh Việt Nam, Viện NCPHVN, 1991, tr.353-386. (2) Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Mâu Tử, tập 2, Tu thư Vạn Hạnh, 1982, tr.292.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5077)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4096)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4692)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4153)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3598)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6880)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6954)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5051)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]