Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tự tình mùa xuân

24/01/201202:14(Xem: 9372)
Tự tình mùa xuân

en

Xuân về, tiết xuân ấm áp, trời xuân quang đãng,muôn vật muôn loài ngây ngất với tình xuân. Phải chăng chính tự thân mùa xuânhàm chứa những chất liệu hạnh phúc hay mùa đông lạnh lẽo và u ám vừa đi qua đãgóp phần tôn vinh vẻ đẹp ngày xuân. Xuân như một bông hoa hàm tiếu, được nuôidưỡng và tiềm ẩn trong cả bốn mùa. Cánh hoa xuân kia sẽ không mỉm cười, cànhxuân kia với những chồi non và lộc biếc sẽ không mơn man nô đùa trong nắng nếunhư chúng chưa từng trầm mình với gió sương. Cũng vậy, nếu như không có cái oiả của mùa hè, cái sụt sùi và dai dẳng của mưa dầm mùa thu cùng cái lạnh giá vàảm đạm của mùa đông thì không thể có mùa xuân ngập tràn nắng ấm. Trong hai mặtcùng tồn tại song song của cuộc đời, sẽ không có mặt phải nếu thiếu mặt trái,sẽ không có ngày nếu vắng mặt bóng đêm, sẽ không có hạnh phúc nếu khổ đau chưamột lần chiêm nghiệm. Cũng vậy, xuân ôm ấp và chứa đựng trong nó tất cả nhữngcái không phải là xuân để hiển lộ nguyên xuân trọn vẹn.

Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làmbiểu tượng của tâm hồn an lạc và thanh tịnh. Mùa xuân của tâm hồn cũng đượckiến tạo và vận động theo quy luật nhất định nhưng không đồng điệu với mùa xuâncủa đất trời. Dù sao thì sau một chu kỳ ngắn, xuân của đất trời lại ghé qua vớibiết bao tặng phẩm mà tạo hoá đã vô tình hào phóng. Với nhân loại, không phảicon tạo không mảy may run rủi cho thân phận con người một mùa xuân miên viễncủa tâm hồn, nhưng thật sự, cánh thiệp báo tâm xuân mấy ai từng vinh nhận. Bởilẽ, trăm năm trong cõi người tamấy ai đã từng chạm đến thềm xuân. Tuyvậy, tâm xuân không mơ hồ, hư ảo, do đó có thể nắm bắt và trao tặng. Tâm xuânhiện hữu vĩnh hằng như tự thân nó chưa từng biến đổi bao giờ.

Chỉ có điều, con người tuy có kỳ vọng hướng đếntâm xuân nhưng đa phần lại thực thi theo chiều trái ngược. Cái gọi làhạnhphúc mà con người hằng khát khao cháy bỏng để chinh phục, tiếc thay lại là cộinguồn của tranh chấp, hận thù. Con người thường lấy những chất liệu khổ đau đểmưu cầu thiết lập hạnh phúc, và đó cũng là bi kịch của kiếp người mãi ngượcxuôi trong trận đồ lẩn quẩn. Mặt khác, cái hạnh phúc thỏa mãn giác quan mà conngười đeo đuổi không phải là chân hạnh phúc. Nó vốn cần thiết cho một cuộc sốngbình thường nhưng tạo ra rất nhiều phó sản khổ đau đồng thời ngoại vi của cáihạnh phúc ấy mở ra đến vô biên do tham cầu vô tận. Nên truy tìm hạnh phúc đốivới con người là một trò chơi cút bắt ngoạn mục và ly kỳ đến vô cùng.

Bi kịch thay khi kiếp người ngắn ngủi, lúc tuổixế chiều lực bất tòng tâm, khi mơ ước thì phiêu bồng nhưng thực tế lại quá phủphàng, hạnh phúc thì ẩn hiện, chợt còn rồi chợt mất. Mùa xuân cuộc đời bặt vôâm tín, chỉ còn lại trong hồn những đụn mây đen trĩu nước mùa hạ, những cơn mưadầm rỉ rả suốt mùa thu và những ngọn gió đông buốt giá đến tê người…

Hakuin.jpg

Khỉ và chim én-Tranh Hakuin

Có ai đãmột lần tự vấn rằng đối với cái hạnh phúc hư dối và mong manh kia mà ta đã thấycánh tay cuộc đời quá ngắn. Thế thì hạnh phúc chân thật vốn sâu kín và nhiệmmầu nào dám mơ tưởng xa xôi. Mùa xuân tâm hồn phải chăng là do con người dựnglên để an ủi cho những linh hồn bất hạnh và đau khổ. Tâm tư là một dòng thác lũsục sôi, lềnh bềnh tham muốn, đau thương và thù hận. Có cái gọi là an tâm thậtsao? Khó mà hình dung được có một tâm thái lặng lẽ mà tỉnh giác, sáng suốt vàlinh hoạt mà không dao động. Không thể nào hiểu được lý lẽ của trái tim nhânhậu bao la, thương yêu vạn loại sinh linh mà không một mảy may luyến ái. Và lạicàng không thể nào hiểu được sự bất động trong vô vàn biến động của cuộc đời.

Tuy nhiên, những gì có vẻ rất xa nhưng thực tếlại rất gần, những điều dường như ngoài sức tưởng tượng lại thường xảy ra hàngngày quanh đời sống chúng ta, khó mà phân định rạch ròi ranh giới giữa đôi bờ khôngthể và có thể. Mùa xuân tâm hồn vẫn còn đó nhưng bị khổ đau, tham đắm vàhận thù che khuất. Ai cũng biết rằng, mặt trời mùa hạ vẫn không nóng hơn mặttrời mùa đông. Mùa xuân của con người vẫn còn đó nhưng chưa hiện hữu vì đêmđông của đời người quá dài, thậm chí tồn tại trong đa phần chúng ta quan niệm:nếu được ngủ yên suốt mùa đông là điều hạnh phúc. Đó cũng là điều dễ hiểu để lýgiải cho câu hỏi vì sao mùa xuân không đến với mọi người. Mùa xuân của tâm hồnlà một tặng phẩm của trời đất dành cho những bậc xuất trần thượng sĩ.

Những aimuốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sángtâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tìnhthương. Hãy chiếu sáng đêm đông của cuộc đời bằng ngọn lửa tỉnh thức và thươngyêu ấy. Lập chí vững chắc để đi về hướng bình minh. Hãy quẳng đi những hànhtrang lỉnh kỉnh không cần thiết cho cuộc hành trình. Con đường tiến về phíatrước dẫu còn mờ mịt, chông gai và lạnh lẽo. Đã đi là đến, quay đầu là bờ, mâytan thì mặt trời ló dạng, đông tàn thì xuân đến, khổ diệt là giải thoát Niếtbàn.

Mùa xuân của đất trời đã về để đánh thức mùa xuân tâmhồn mãi ngủ quên…

Quảng Tánh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4935)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5080)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4433)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4098)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4693)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4153)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3600)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6881)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6954)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5052)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]