Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Không lầm thân mộng

22/01/201217:59(Xem: 6894)
Không lầm thân mộng
ht%20thanh%20tu

Mỗi đêm chúng ta đềutụng Bát-nhã “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Chiếu kiến ngũ uẩn của ai? Ngũuẩn của mình. Như vậy là soi sáng, xét nét lại chính mình để biết rõ năm uẩnkhông thật, không có thực thể, từ đó mà qua tất cả khổ nạn. Thân đã không thậtthì cảnh bên ngoài có thật được không? Không. Vậy mà con người luôn thấy thântâm và muôn sự muôn vật lúc nào cũng có thật.

Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đời là ảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quantrọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng taphải khắc tỉnh, mạnh dạn vượt qua ảo mộng. Có một sự tích liên quan đến đếnviệc gá thân mộng như thế này: Thiền sư “Đả Táo Đọa”, do đập bể ông táo màthành danh. Ngài tu ở vùng núi Xuân Sơn bên Trung Hoa với một số đồ chúng. Mộthôm Ngài dẫn chúng đi dạo núi, đến gần thung lũng thấy một miếu thờ, dân chúnglàm thịt bò, trâu, heo, gà dâng cúng liên miên. Hỏi ra được biết vị thần Táo ởmiếu này rất linh, cầu gì được nấy. Nghe rồi, Ngài cầm gậy vô miếu, thấy trênbàn thờ có để ba viên gạch, Ngài lấy gậy gõ vào đó nói: “Đây là do gạch đấthợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào ?”Nói xong, Ngài đập một gậy,ba viên gạch bể nát rơi xuống đất. Lát sau trên đường đi, gặp một vị áo xanh mũxanh quì trước mặt. Ngài hỏi:

- Ông là ai ?

- Con là thầnTáo trong miếu đến tạ ơn Hòa thượng.

Ngài nói:

- Ta đã làmgì mà ngươi tạ ơn ?

- Nhờ ơn Hòathượng nói lý vô sanh mà con tỉnh ngộ, thác sanh lên cõi trời, bỏ thân đọa đàytrong bao nhiêu đời ở tại miếu này.

Nói xong ôngđảnh lễ rồi biến mất. Thị giả thấy vậy mới thưa:

- Bạch Hòathượng, con hầu Ngài đã lâu mà không được nghe nói lý vô sanh, thần Táo này cóphước gì mà Hòa thượng mới nói một câu ông liền ngộ ?

Ngài lặp lạicâu nói trên cho thị giả nghe và hỏi:

- Ông hộikhông ?

- Dạ conkhông hội.

Ngài nói:

- Bể rồi! Bểrồi! Rơi rồi! Rơi rồi!

Thị giả liềnngộ.

Kể chuyện nàyđể quí vị hiểu chỗ chúng tôi dùng chữ gá. Thần Táo gá vào đất gạch mà phải ở đóbao nhiêu năm. Còn chúng ta gá vào cái gì? Gá vào đất nước gió lửa, rồi chấp đócho là mình, có đau khổ chưa? Cho là mình rồi thì giành hơn giành thua, chấpphải chấp quấy. Bao nhiêu tội nghiệp cũng từ đó mà ra. Nếu bây giờ nhớ thân nàylà cái mình gá, không có gì quan trọng hết, biết như vậy là biết được lý vôsanh.

Thân này làgiả tạm, là mộng, mộng thì có gì thật đâu. Trong khi mộng, sanh cũng mộng, tửcũng mộng, sanh không thật sanh, tử không thật tử. Nhận được như vậy thì lý vôsanh hiện tiền. Ngay thân này, nhận được lẽ thật thì thấy đạo, thấy đạo thìthoát ly sanh tử. Ngược lại, chúng ta cứ bám vào thân này cho là thật, là quírồi xem cái khổ vui, hơn thua của nó là quan trọng, tức nhiên mình bị nó chiphối, không những trong hiện đời, mà cả lúc thọ thân sau. Cho nên ngay thân nàychúng ta thức tỉnh, biết được nó là mộng thì tự nhiên có thể lần lần thoát ly,không bị nó cuốn lôi nữa. Do đó thần Táo chỉ nhờ nghe câu: “Đây là do gạch đấthợp thành, linh từ đâu lại, thiêng ở chỗ nào ?”, ông giựt mình thức tỉnh liềnbuông được cái gạch đất và sanh lên cõi trời.

Chúng ta khibiết rõ thân này do đất nước gió lửa hợp thành, không phải thật mình thì sao ?Thật nhẹ nhàng biết mấy, nhưng không chịu buông, cứ bám vào đó mà hơn thua phảiquấy. Có những đêm tôi ngồi ở ngoài, đuổi muỗi cắn, tôi rờ thấy xương, thấythịt, một hồi tôi tức cười quá. Thân này thật không ra gì, gá vào nó cực quá.Gá từng khúc từng mảnh, mà cứ cho là mình, từ đó bao nhiêu cái dở phát sanh, kểkhông thể hết. Vậy mà cứ hài lòng, động đến là phản đối chống trả mãnh liệt.

Chúng ta chỉcần thức tỉnh thân này tạm gá mượn, lấy đó làm bè qua sông, đừng nghĩ nó làthật, cứ lo bồi bổ tô điểm đủ thứ mà chìm đắm, không qua sông được. Những điềutôi nói trên đây nhằm nhắc nhở cho cả Tăng Ni và cư sĩ. Nếu chúng ta thức tỉnhđược điều đó thì chuyện thoát ly sanh tử không khó. Còn nếu chúng ta mê hoàithì không biết chừng nào ra khỏi biển sanh tử. Cho nên chủ yếu Phật dạy lý vôngã là như vậy. Thấy rõ thân này không phải thật ngã thì tự nhiên thoát ly sanhtử. Nếu thấy là thật ngã thì ngàn đời không bao giờ ra khỏi sanh tử, dù tu hạnhgì cũng thế. Đó là một lẽ thật.

Đối với người tỉnh,thương mình là phải tìm ra cái gì thật mình, cái gì không phải thật mình. Chúngta xét xem nơi mình cái gì thật, cái gì không thật. Thân này thật không ? Khôngthật. Tạo sao? Vì thân vô thường, duyên hợp tạm có. Nhà Phật nói thân do bốnphần đất, nước, gió, lửa hợp lại thành. Chất cứng trong người là đất, chất ướttrong người là nước, chất động trong người là gió, hơi ấm trong người là lửa.Bốn thứ đó thiếu một thì không sống được.

Khi bốn chất đó hợp lạithành thân rồi, muốn thân tăng trưởng lâu dài thì phải mượn đất, nước, gió, lửabên ngoài bồi bổ thêm hoài. Như vậy nó mới còn, mới tăng trưởng. Như lỗ mũichúng ta đang thở. Hít vô là mượn, thở ra là trả. Mượn trả, mượn trả… trả ra màkhông mượn lại thì tắt thở. Nếu thân thật thì đâu cần mượn, mà mượn thì khôngthật. Đó là nói về gió.

Đến nước, một lát mượntách nước, mượn rồi trả. Rồi mượn cơm tức là mượn đất, mượn rồi cũng trả. Nhưvậy chúng ta sống an vui, khỏe mạnh là nhờ mượn trả suông sẻ. Nếu mượn trả trụctrặc thì phải đến bệnh viện cứu cấp liền. Thế thì giá trị của con người ở chỗnào? Chỉ là sự mượn trả, mà chúng ta cứ ngỡ mình thật, mình là chủ tất cả. Khithấy được thân này vay mượn tạm bợ, chúng ta có bớt quí nó không? Giả sử aichê, nói mình xấu quá ta có giận không? Đã là đồ vay mượn, xấu tốt có quantrọng gì.

Sở dĩ người ta chê mộtcâu mà mình nổi sân đùng đùng là do ta tưởng mình quí, tưởng mình tốt. Còn nếubiết mình là hư giả, người ta nói gì mình cũng cười thôi. Đó là người trí tuệ,ngược lại là kẻ si mê. Như vậy lấy cái tạm bợ làm cái chân thật của mình cóđược không ? Chắc chắn không được rồi. Đó là tôi nói về thân.

Đến tâm, cái gì là tâmmình ? Vấn đề này tế nhị hơn. Lâu nay chúng ta quen cho nghĩ thiện nghĩ ác… làtâm mình. Tôi xin hỏi, từ khi cha mẹ sinh ta ra đến ngày nhắm mắt, mình là mộthay trăm thứ tạp nhạp ? Tâm suy nghĩ thiện ác hơn thua phải quấy tạp nhạp, mộtngày đổi thay cả trăm lần. Nếu tâm ấy là mình thì chúng ta tạp nhạp mất rồi.Nên phải biết tâm buồn thương giận ghét hơn thua phải quấy chỉ là những mảnhvụn, tạm bợ, chứ không phải thật tâm mình.

Đạo Phật chỉ cho chúngta cái gì là thật nơi mình. Như khi niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, tâm khôngcòn suy nghĩ lăng xăng nữa, mới được đức Phật đón về Cực Lạc. Tại sao phải niệmtới chỗ nhất tâm? Vì tất cả những nghĩ suy đều là tạp nhạp hư dối, không phảithật mình. Lặng hết những thứ đó, tâm chân thật mới hiện bày. Tâm chân thậthiện bày nên Phật mới đến đón. Cho nên niệm Phật phải niệm tới nhất tâm là vậy.

Người tu thiền để đượcđịnh. Định những tâm lăng xăng lộn xộn mà lâu nay chúng ta mê cứ tưởng nó làmình. Những thứ giả dối tạm bợ ấy lặng rồi thì được định. Định tới chỗ cứu kínhsẽ được Niết-bàn vô sanh. Như vậy, chủ trương đạo Phật dạy tu là dẹp tâm lăngxăng lộn xộn, trở về tâm chân thật sẵn có nơi mình. Lâu nay chúng ta quên nêncứ chạy theo những thứ lăng xăng thành ra chìm mãi trong sanh tử khổ đau.

Năm cũ sắptàn, bước qua năm mới, chúng tôi mong rằng quí vị tại gia nỗ lực làm đúng tinhthần học hiểu của mình. Còn giới xuất gia lập chí đúng tinh thần người xuấtgia, để chúng ta chuẩn bị cho năm mới, cương quyết tiến tới mục đích mình đãđịnh.

Mong tất cảchuẩn bị cho năm mới đẹp đẽ hơn, mạnh mẽ hơn, cứng cỏi hơn để đạt được sở nguyệncủa mình. Đó là lời chúc xuân của tôi.

HT. Thích Thanh Từ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4536)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7355)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4765)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4881)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5310)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10282)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9033)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6109)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8796)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4978)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]