Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cánh lan rừng

21/01/201201:56(Xem: 8011)
Cánh lan rừng

201181591741934887509
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành viếng cảnh, lễ Phật và cầu quốc thái dân an. Tu viện này có cả trăm Tăng chúng tu tập. Hôm ấy công chúa Thanh Thiên, ái nữ duy nhất của quốc vương và hoàng hậu, tình cờ bắt gặp ánh mắt của Chân Tánh, một Tăng sinh thông minh, tướng hảo, đa tài, mỉm cười rồi quay đi. Nhưng lạ thay, Chân Tánh từ đó cứ thấy mình hình như thiếu vắng một cái gì, học hành tu tập không được thoải mái và tự tin như trước.

Vu Lan năm đó, quốc vương cũng đưa hoàng gia đến chùa lễ Phật và cúng dường trai tăng. Lần này Chân Tánh tìm cách gặp mặt Thanh Thiên, cả hai bẽn lẽn, chào hỏi và bắt chuyện vu vơ rồi tạm biệt. Và từ đó, Thanh Thiên cũng cảm thấy hình như mình đã đánh mất một cái gì, tâm trí hay quên và tánh tình cũng giảm đi phần hồn nhiên tươi mát.

Mùa xuân năm sau, như thường lệ, quốc vương lại dẫn phái đoàn hoàng triều đến tu viện lễ Phật và cầu phúc minh niên. Thanh Thiên và Chân Tánh lần này gặp nhau, dắt nhau ra hồ sen dạo mát và trò chuyện khá lâu. Và từ đó, hai bên hẹn hò, rủ nhau đi chơi mỗi tháng hai lần vào những ngày quy định. Một hôm, đang cùng nhau thả bước bên triền núi, Thanh Thiên bỗng thấy một cành lan rừng rất đẹp, đong đưa trên mỏm đá cheo leo, bèn vỗ tay reo lên: “Ôi… cành hoa đẹp quá!...” Chân Tánh ngước mắt nhìn và nhảy vọt lên ghềnh đá, ra sức bám trèo, rướn lên tuột xuống, tay chân xây xát, chảy máu, nhất là chiếc áo Nhật bình, đứt nút và banh ra trước ngực. Phải vận sức bình sinh năm lần bảy lượt Chân Tánh mới hái được đóa hoa. Nhưng khi hái rồi, làm sao xuống đây! Sơ ý một chút là tán thân thất mạng. Sư bám người trên vách đá giữa trời nắng chang chang như một loài bò sát đang rình mồi. Phần mệt mỏi sợ sệt, phần tìm cách đối phó với tình huống hiểm nghèo, sư cứ bám trụ như thế mà không dám quay mặt nhìn lui. Còn Thanh Thiên thì đứng ngồi không yên, chắp tay, nhắm mắt, bụm miệng, rùng mình, tay chân co giật run rẩy như người mắc bệnh kinh phong. Và, đúng là trong cái khó ló cái khôn, sự ngậm cành hoa bên mép phải để cho những cánh hoa khỏi va vào đá mà dập nát hay rơi rụng, rồi hai tay hai chân tì chặt vào vách đá, nhích từng chút một, và cuối cùng, nhờ ơn trời đất, sư cũng mang được cành hoa tươi thắm đó xuống tặng nàng. Thấy tay chân sư máu me từng vệt, quần áo trầy rách, Thanh Thiên ôm choàng lấy sư, gục đầu vào vai khóc rưng rức. Đoạn Thanh Thiên rút khăn ra lau sạch hai bàn tay sư, nhìn chăm chăm một lát rồi le lưỡi liếm qua những vết trầy sướt còn tươm máu. Cảm động quá, Chân Tánh cũng ôm choàng lấy nàng, vuốt xuôi mái tóc và vỗ về an ủi trong im lặng.

Hai tháng trôi qua, một hôm trên đường dạo mát, Thanh Thiên nắm tay Chân Tánh nói:

- Phải đi thôi anh à!

- Tại sao phải đi!... Và đi đâu?... Chân Tánh ngạc nhiên hỏi.

- Đi đâu cũng được, miễn sao đừng cho ai biết tông tích của chúng mình!

- Em nói gì anh không hiểu!...

- Anh không hiểu thật sao?

- Mô Phật, anh chẳng hiểu gì cả!

- Em đã có thai!...

- Trời đất!... Chết…chết…chết!...

- Chết cái gì?... Đã đốn thì phải vác!... Em không chết thì thôi chứ anh chết cái gì?... Thanh Thiên nắm chặt hai tay Chân Tánh, nhìn thẳng vào mắt và quả quyết nói.

- Nhưng mà... anh còn sư phụ và huynh đệ pháp hữu của anh nữa! Trời ơi!... Anh không thể sống xa đại chúng!... Anh không thể tách rời mái ấm thiền môn. Tất cả đã là một phần máu thịt của anh, em hiểu chưa?...

- Em bé trong bụng này không phải là một phần máu thịt của anh? Thanh Thiên gõ gõ tay vào bụng mình và nghiêm giọng nói.

- Nhưng mà… biết đi đâu bây giờ!... Trời ơi, chết tôi rồi!...

- Chiều nay lên đường rồi sẽ biết đi đâu. Anh chuẩn bị hành trang. Em sẽ chờ anh trước cổng chùa vào lúc chạng vạng.

Thanh Thiên lấy hết vàng bạc châu báu của riêng mình và một số y phục cần thiết, tất cả gói trong một chiếc khăn vuông khá lớn, khoác lên vai rồi trực chỉ đến điểm hẹn, nắm tay Chân Tánh hối hả dắt đi như dân tản cư trong cơn đại loạn. Cả hai men theo bìa rừng đi suốt đêm, đến lúc tảng sáng thì vào hẳn trong rừng, tiếp tục cuốc hành trình định mệnh.

Quốc vương và hoàng hậu cứ tưởng con mình đến chùa lễ Phật, nghe Pháp. Tới khuya không thấy con về, cả hoàng triều náo động, quốc vương truyền lệnh cho đám vệ binh tức tốc lên đường đi tìm công chúa. Cũng may là họ chỉ phi ngựa tìm kiếm trong thành nên Thanh Thiên và Chân Tánh đi được khá xa. Trải qua mấy ngày trèo đèo vượt suối, mệt mỏi đói khát, bụng chửa dạ mang, Thanh Thiên kiệt sức, không đi được nữa. Nàng ngồi bệt xuống thảm cỏ bên triền núi, đưa mắt thẫn thờ nhìn người yêu, nói:

- Em hết đi được nữa rồi!

- Cố lên em ơi!... Chỗ này chưa phải là nơi an trụ của chúng mình.

Để khỏi luộm thuộm, dễ bề dìu dắt bồng bế người yêu, Chân Tánh cởi chiếc áo Nhật bình ướt sũng trên người định vất đi, nhưng lạ thay, ba lần vung tay, ba lần chiếc áo vẫn còn đó, không thể nào buông xả nó. Thanh Thiên thấy vậy nói:

- Đến giờ phút này mà anh còn tiếc nuối nỗi gì!

- Không được em ơi!... Chiếc áo này là mạng mạch của đời anh!

- Mạng mạch của anh như vậy, còn mạng mạch của vợ con anh thì sao?...

Chân Tánh lặng người, hai tay cầm chiếc áo, nhắm mắt xoay người một vòng để vất nó cho xa, khỏi thấy nó rơi nơi nào, nhưng khi mở mắt thì chiếc áo vẫn còn dính chặt trong tay. Bất giác, nước mắt chảy dài, Chân Thánh nâng chiếc áo lên ngang mặt một lát rồi máng nó trên một cành cây và chắp tay xá ba xá.

Thấy Thanh Thiên kiệt sức, Chân Tánh khích lệ đôi lời rồi đưa lưng cõng nàng lên đường tiếp tục.

Một ngày sau, Chân Tánh đi đến một cánh rừng có cây xanh bóng cả, khí hậu mát mẻ, đặc biệt là bên dưới có một dòng suối hiền hòa, nước chảy quanh năm; sư quyết định dừng chân và lập nghiệp tại đó.

Tuy bao năm kinh kệ sách đèn, ít vận dụng công sức, nhưng gặp thời thế thế thời phải thế. Sư ra tay dựng lên một túp lều nho nhỏ, đủ cho hai người trú nắng che mưa. Ngày ngày sư khai khẩn đất hoang, trồng đủ các loại cây hoa màu, nàng ở nhà chăm lo công việc nội trợ. Cuộc sống tuy cô quạnh thiếu thốn nhưng đầy ắp tình yêu thương hạnh phúc.

Sau sáu năm nỗ lực xây dựng một thế giới riêng tư biệt lập, Chân Tánh và Thanh Thiên đã gầy dựng được một gia sản tượng đối ổn định, có ruộng vườn nương rẫy, gia súc đầy chuồng, nhất là hai đứa con, một trai một gái bụ bẫm, trông rất dễ thương.

Tưởng đâu đất lành chim đậu, nào ngờ sóng gió nổi lên. Một buổi trưa nọ, nhân lúc thăm đồng, Chân Tánh nhác thấy một em gái chăn dê, khoảng mười lăm mười sáu tuổi, ngồi dưới một tàng cây. Thế là vô minh thức dậy, dục vọng xông lên, Chân Tánh đuổi bắt em gái để thỏa mãn dục tình. Con nhỏ chạy bạt mạng, và rủi thay, nó vấp chân té ngã, xóc cây lủng bụng và chết ngay tại chỗ.

Để che giấu tội lỗi và tránh né ngục tù, Chân Tánh bán hết tài sản, đưa vợ con đến một nơi xa lạ khác để dựng lại cơ đồ. Và sau bốn năm cật lực phấn đấu, Chân Tánh cũng thiết lập được một trang trại vững vàng và có thêm một bé trai. Trong thâm tâm của Chân Tánh và Thanh Thiên, gia nghiệp như thế có thể gọi là lý tưởng, viên mãn. Tiếc thay, trời còn có gió mưa bất định, người tránh sao họa phúc hôm mai. Một trận lũ lụt kinh hoàng diễn ra mấy ngày, nước trên nguồn chảy xuống đồng bằng như thác, dâng ngập cả trang trại của Chân Tánh. Cả nhà chạy lũ, Chân Tánh lưng cõng đứa con út, hai tay dắt hai đứa con lớn, Thanh Thiên nắm chéo áo chồng, tất cả gồng mình cố vượt qua dòng nước lũ. Bất hạnh thay, nước mỗi lúc một dâng cao và chảy xiết, đứa con út tuột khỏi lưng cha, cuốn theo dòng nước phăng phăng. Chân Tánh hoảng hốt lao tới cứu con, hai bé kia mất đà, té nhào; Thanh Thiên thất kinh lao tới, Chân Tánh cũng lao theo để cứu vợ con; nhưng khốn thay, tất cả đều nhấp nhô cuồn cuộn theo dòng nước bạc.

Mơ màng ngơ ngác, thất lạc bơ vơ, Chân Tánh rùng mình mở mắt, và thấy mình đang tĩnh tọa giữa thiền thất, trước kim tượng Đức Thế Tôn. Sư lặng người một lát, rồi từ từ đứng lên, đảnh lễ Bổn Sư và đưa tay lau hai khóe mắt.

Tịnh Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5585)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5498)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6900)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4286)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9114)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5451)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5072)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5667)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6150)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5162)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]