Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hành Trạng Bồ Tát Quan Thế Âm

22/09/201015:30(Xem: 14527)
Hành Trạng Bồ Tát Quan Thế Âm

Hành Trạng Bồ Tát Quan Thế Âm

Thích Phước Sơn

Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này. Mỗikhi nói về Ngài, tựa hồ chúng ta ai cũng biết, nhưng có lẽ không ai dám cho làmình đã hiểu biết đầy đủ tất cả. Thế nên, trong bài này người viết xin giớithiệu cụ thể đôi nét chân dung của Bồ tát một lần nữa, để giúp đại chúng quanchiêm.

Trước hết hãy nói về danh hiệu của Bồ tát. Thông thường cácKinh điển kể về 8 danh hiệu của Ngài như sau:

1. Quan Thế Âm Bồ tát;

2. Quán Tự Tại Bồ tát;

3. Quan Thế Tự Tại Bồ tát;

4. Quan Thế Âm Tự Tại Bồ tát;

5. Hiện Âm Thanh Bồ tát;

6. Quan Âm(*) Bồ tát;

7. Cứu Thế Bồ tát;

8. Quan Âm Đại Sĩ.

Trên đây là những danh hiệu phổ biến mà nhiều người thườngbiết đối với vị Bồ tát này. Thế thì có những Kinh điển chủ yếu nào đề cập đếnxuất xứ, vị trí và những hoạt dụng của Ngài?

* Chúng ta thấy đại khái hành trạng của Bồ tát qua các Kinh:

1) Theo Kinh Đại A Di Đà thì Ngài là Thị vệ bên trái, còn Bồtát Đại Thế Chí là Thị vệ bên phải của đức Phật A Di Đà lo việc cứu độ chúngsinh trong thế giới Ta bà. Cả 3 vị được gọi chung là Tây phương Tam Thánh (3 vịThánh ở phương Tây). Và trú xứ chính thức của các Ngài là cõi Tây phương Tịnhđộ. Phàm khi chúng sinh gặp tai nạn mà chí thành niệm danh hiệu Quan Âm Bồ tát,thì lập tức Ngài đến nơi cứu giúp. Do thế mà Ngài được đức hiệu là Quan Thế ÂmBồ tát (Vị Bồ tát chuyên lắng nghe âm thanh cầu cứu của thế gian).

2) Theo Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn thì Ngài có 33 hóa thân,từ thân Phật, Độc giác… đến thân đồng nam, đồng nữ. Ngài thường vận dụng 14năng lực vô úy để cứu vớt chúng sinh thoát khỏi ách nạn, hoặc đáp ứng những yêucầu chính đáng khi nào chúng sinh thành tâm niệm đến danh hiệu của Ngài.

3) Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm thì pháp môn tu của vị Bồ tátnày là Nhĩ Căn Viên Thông, nghĩa là tai Ngài có thể được sử dụng như năm cănkhác. Ngài phát tâm tu hành nơi pháp hội của đức Phật Quan Thế Âm, và đức Phậtnày đã thọ ký cho Ngài khi thành Phật sẽ có Phật hiệu giống như mình. Do đó màNgài có hiệu là Quan Thế Âm. Đồng thời vị Bồ tát này cũng có 32 ứng thân giốngnhư Kinh Pháp Hoa đã mô tả.

Chỗ khác nhau là Kinh Pháp Hoa kể đến 33 ứng thân, còn KinhLăng Nghiêm thì liệt kê 32 ứng thân. Ngoài ra, hai Kinh này còn giống nhau mộtđiểm nữa là cùng mô tả về 14 đức vô úy của vị Bồ tát này. Số lượng và nội dungcủa các đức vô úy này gần y hệt như sau.

4) Theo Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà la ni thìNgài đã thành Phật từ đời quá khứ cách nay vô lượng kiếp, hiệu là Chánh PhápMinh Như Lai, nhưng vì nguyện lực Đại bi, muốn làm lợi ích cho chúng sinh nênNgài hiện thân Bồ tát để dễ dàng hoàn thành đại nguyện. Thế nên, ngoài danhhiệu Bồ tát Quan Âm như chúng ta thường nghe, có đôi chỗ còn gọi là Phật QuanÂm là vì vậy.

5) Theo Kinh Nhất Thiết Công Đức Trang Nghiêm Vương thì Ngàilà Thị vệ của đức Phật Thích ca.

6) Theo Mật giáo thì Ngài là hóa thân của đức Phật A Di Đà.

7) Theo Kinh Hoa Nghiêm thì đạo tràng của Ngài ở núi Bồ ĐàLạc trên biển Nam Hải. Đó là đôi nét sơ lược về hành trạng của Bồ tát Quan Âmmà các Kinh đã đề cập đến. Bây giờ chúng ta sẽ bàn rõ thêm một số vấn đề cụ thểkhác.

* Cuộc đời Ngài qua các phương diện:

1) Về tín ngưỡng Quan Âm

Tín ngưỡng này phát xuất từ Ấn Độ, Tây Vức, sau đó nhờ côngtác phiên dịch Kinh điển mà nó được truyền sang Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản,Triều Tiên, Việt Nam v.v… Bản Kinh có đề cập đến Bồ tát Quan Âm là Kinh PhápHoa Tam Muội, gồm 6 quyển, do Chi Cương Lương Tiếp dịch vào năm Ngũ phụng thứ 2(255) triều đại nhà Ngô thời Tam Quốc. Đây là bộ Kinh được dịch sớm nhất làloại này. Sau đó, Trúc Pháp Hộ dịch Chánh Pháp Hoa Kinh Quan Thế Âm Phổ Mônphẩm vào năm Thái Khang thứ 7 (286). Rồi Cưu ma la thập dịch Diệu Pháp Liên HoaKinh Quan Thế Âm Bồ tát Phổ Môn phẩm vào năm Hoằng Thỉ thứ 8 (406) đời DiêuTần.

Bắt nguồn từ các Kinh được phiên dịch ra chữ Hán kể trên màsự tín ngưỡng Quan Âm dần dần phát triển mạnh. Tại Tây Tạng, nền tín ngưỡng nàyrất thịnh hành. Lạt ma giáo cho rằng đức Đạt Lai Lạt Ma được tái sinh nhiều đờichính là hình ảnh hóa thân của Bồ tát Quan Âm. Ngoài ra, các nước khác tại ChâuÁ, chịu ảnh hưởng của Phật giáo Bắc truyền thì hình ảnh Bồ tát Quan Âm tượngtrưng cho mẹ hiền cứu khổ, được nhiều người thành kính tin tưởng và rất mực tônsùng.

2) Về diệu dụng của Quan Âm

Về sức uy thần diệu dụng của vị Bồ tát này theo Kinh PhápHoa thì thường có 33 hiện thân như sau:

1. Thân Phật;

2. Thân Độc Giác;

3. Thân Duyên Giác;

4. Thân Thanh Văn;

5. Thân Phạm Vương;

6. Thân Đế Thích;

7. Thân Tự Tại Thiên;

8. Thân Đại Tự Tại Thiên;

9. Thân Thiên Đại Tướng quân;

10. Thân Tứ Thiên Vương;

11. Thân Thái tử của Tứ Thiên Vương;

12. Thân Nhân Vương;

13. Thân Trưởng giả;

14. Thân Cư sĩ;

15. Thân Tể quan;

16. Thân Bà la môn;

17. Thân Tỷ kheo;

18. Thân Tỷ kheo ni;

19. Thân Ưu bà tắc;

20. Thân Ưu bà di;

21. Thân Nữ chúa;

22. Thân Đồng nam;

23. Thân Đồng nữ;

24. Thân trời;

25. Thân Rồng;

26. Thân Dược xoa;

27. Thân Càn thát bà;

28. Thân A tu la;

29. Thân Khẩn na la;

30. Thân Ma hầu la già;

31. Thân Người;

32. Thân Phi nhân;

33. Thân Thần Cầm Kim Cương.

Đó là những hóa thân của Quan Âm Bồ tát. Đồng thời Ngài còncó 14 năng lực Vô úy khác nữa phát sinh hiệu dụng khi nào chúng sinh thành tâmniệm danh hiệu của Ngài, mà Kinh Pháp Hoa cũng như Kinh Lăng Nghiêm đã mô tảnhư sau:

1. Chúng sinh khổ não trong 10 phương thành kính niệm danhhiệu Ngài, liền được giải thoát;

2. Chúng sinh gặp lửa dữ…, lửa không thể thiêu đốt;

3. Chúng sinh bị nước cuốn trôi…, nước không thể nhận chìm;

4. Chúng sinh vào xứ ác quỉ…, ác quỉ không thể làm hại;

5. Chúng sinh gặp đao trượng…, đao trượng liền gãy;

6. Chúng sinh gặp ác quỉ, ác thần…, thì chúng không trôngthấy;

7. Chúng sinh bị gông cùm, xiềng xích…, thì xiềng xích đượctháo ra;

8. Chúng sinh khi vào đường nguy hiểm…, giặc cướp không thểcướp đoạt;

9. Chúng sinh nhiều tham dục…, liền dứt khỏi tham dục;

10. Chúng sinh nhiều nóng giận…, liền dứt hết nóng giận;

11. Chúng sinh nhiều mê ám…, liền dứt hết mê ám;

12. Chúng sinh muốn cầu con trai…, liền được con trai;

13. Chúng sinh muốn cầu con gái…, liền được con gái;

14. Chúng sinh niệm danh hiệu Quan Âm thì được lợi ích bằngniệm tất cả các danh hiệu khác.

Đó là 14 diệu dụng mà đức Bồ tát này dùng để hóa giải áchnạn, ban phát ân huệ cho những chúng sinh nào có lòng thâm tín đối với Ngài.

* Về Hình Tượng Quan Âm

Trước hết hãy nói về giới tính của Ngài, thông thường đượcthể hiện qua 2 hình thức, hoặc là Nam tính, hoặc là Nữ tính.

Nam tính: Phật giáo Tây Tạng thờ Bồ tát Quan Âm theo hìnhthức Nam tính. Đồng thời tương truyền từ đời Đường trở về trước các nước Phậtgiáo khác tại Châu A cũng tạc tượng Ngài theo hình thức Nam tính.

Nữ tính: Theo sách Trang Nhạc Ủy Đàm thì từ đời Đường trở vềsau, các nước chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa, khi tạc tượng Ngài đều dùnghình thức Nữ tính.

Ngoài ra, 3 chi phần khác là đầu, mắt, và tay của Bồ tátthông thường được minh họa như sau:

Đầu: Từ một đầu, 3 đầu, 5 đầu, nghìn đầu, cho đến 84.000đầu.

Mắt: Từ 2 mắt, 3 mắt, cho đến 84.000 mắt.

Tay: Từ 2 tay, 4 tay, cho đến 84.000 tay.

* Về Những Ngày Kỷ Niệm

Như tất cả chúng ta đều biết, đặc biệt vị Bồ tát này hằngnăm có đến 3 ngày kỷ niệm, đó là kỷ niệm các ngày Đản sanh, Xuất gia và Thànhđạo:

Ngày Đản sanh: nhằm ngày 19/02 âl.

Ngày Xuất gia: nhằm ngày 19/06 âl.

Ngày Thành đạo: nhằm ngày 19/09 âl.

* Về Nơi Cư Trú

Tất nhiên, do sức thần thông diệu dụng và do bản hoài cứukhổ chúng sinh nên vị Bồ tát này luôn luôn có mặt ở khắp mọi nơi mỗi khi cóngười thành tâm cầu nguyện, nghĩa là có cảm thì có ứng. Nhưng theo lẽ thôngthường, chúng ta thấy các Kinh ký tải về nơi cư trú của Ngài như sau:

Ở Tây phương Tịnh độ: theo Kinh A Di Đà.

Ở núi Bồ đà lạc trên biển Nam Hải: theo Kinh sớ Hoa Nghiêmsớ.

Ở núi Phổ Đà, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc: theo Kinh QuanThế Âm Bồ tát cứu khổ.

* Quan Âm Liên Hệ Với Chuẩn Đề

Bây giờ xin trình bày về mối quan hệ giữa Bồ Tát Quan Thế Âmvà Bồ Tát Chuẩn Đề. Chuẩn Đề là từ phiên âm của chữ Phạn Cundi, chữ này cònđược phiên âm là Chuẩn Chi, Chuẩn Nê, có nghĩa là thanh tịnh; nói cho đủ làChuẩn Đề Quan Âm, Chuẩn Đề Phật Mẫu, Phật Mẫu Chuẩn Đề hay Thất Cu Chi PhậtMẫu. Như Vậy, Chuẩn Đề hay Chuẩn Đề Quan Âm chính là một trong những danh hiệucủa Quan Âm Bồ tát. Theo Thất Cu chi Phật Mẫu Chuẩn đề Đà La Ni Kinh thì thânvị Bồ tát này có màu vàng trắng, ngồi kiết già trên đài sen, có hào quang tỏasáng xung quanh, mình mặc thiên y, trên đầu trang điểm ngọc anh lạc, có 18 tayđều đeo vòng xuyến, gồm có 3 mắt. Vị Bồ tát này chuyên hộ trì Phật pháp và bảohộ những chúng sinh có mạng sống ngắn ngủi được thọ mạng lâu dài. Pháp môn tuhành của vị Bồ tát này là trì tụng bài chú: "Nam mô tát đa nẫm, tam miệutam bồ đà Câu chi nẫm, đát diệt tha, án, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bàha".

Nếu ai chí thành trì tụng bài chú trên thì sẽ tiêu trừ taihọa, dứt hết bệnh tật, đạt được thông minh…, nhận được một luồng hào quangchiếu đến làm tiêu tan tội chướng, thọ mạng lâu dài, tăng trưởng phước đức:đồng thời được chư Phật, Bồ tát gia bị, đời đời kiếp kiếp xa lìa ác thú, mauchóng chứng đắc Vô thượng Bồ đề.(1)

Thiền tông xem vị Bồ tát này chỉ là một danh hiệu khác củađức Quan Âm nên rất tôn sùng. Còn tông Thai Mật ở Nhật Bản thì xếp Ngài vào địavị Phật, xem là Phật mẫu. Nhưng tông Đông Mật ở Nhật thì thừa nhận Chuẩn Đề làmột trong 6 danh hiệu Quan Âm, thuộc Liên Hoa bộ. Sáu danh hiệu này là:

1. Thiên Thủ Quan Âm;

2. Thánh Quan Âm;

3. Mã Đầu Quan Âm;

4. Thập Nhất Diện Quan Âm;

5. Chuẩn Đề Quan Âm;

6. Như Ý Luân Quan Âm.

Theo Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni Kinh thì vì để hóa độ chúngsinh mà đức Quan Âm ứng hóa thân vào trong lục đạo. Ngài ngự trị ở Biến TriViện thuộc Hiện đồ Thai tạng giới Mạn Trà la(2).

Ở đây xin giải thích thêm về từ "Phật Mẫu" mà ởtrên đã đề cập.

Phật Mẫu (Buddha màtri, Budhdha màtar) bao gồm 4 nghĩa nhưsau:

1. Chỉ cho Ma da phu nhân (Mahà màyà) thân mẫu của Phật,hoặc chỉ cho Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahà Prajàpatì) Di Mẫu của Đức Thích Ca;

2. Chỉ cho Bát Nhã Ba La Mật (panna paramita). Vì Bát Nhã(trí tuệ) có thể sinh ra tất cả chư Phật, nên Thiền tông xem Bát Nhã là PhậtMẫu (mẹ của chư Phật);

3. Chỉ cho pháp. Vì chư Phật lấy pháp làm thầy, do pháp màthành Phật, cho nên gọi pháp là Phật mẫu;

4. Chỉ cho Phật nhãn tôn. Theo Mật giáo, đây là một trongnhững hình thức thần cách hóa(3).

Quan hành trạng của Quan Thế Âm Bồ tát được trình bày trênđây hình như hơi khó thuyết phục đối với nhãn quang của giới khoa học. Tin haykhông tin là quyền của mỗi người. Nhưng nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấyrằng hằng ngày trên thế giới này không biết bao nhiêu thiên tai, chiến nạn xảyra, và cũng không biết bao nhiêu tấm lòng từ bi nhân ái sẵn sàng nhường cơm xẻáo hầu xoa dịu phần nào những nỗi đau thương thống khổ của đồng bào, đồng loại.Chứng kiến những cảnh tượng ấy, hiển nhiên chúng ta sẽ không còn ngờ vực gì nữavề diệu dụng từ bi cứu khổ, cứu nạn của đức Bồ tát Quan Thế Âm đối với thế giannày.

Chú Thích:

(*) Quan Âm: Tên Ngài gọi đủ là Quan Thế Âm, nhưng vì ngườiđời Đường ở Trung Quốc kiêng húy chỉ "Thế" nên gọi tắt là Quan Âm.Rồi từ đó trở về sau, nhiều người gọi mãi thành quen, vì thế mà có danh hiệuQuan Âm Bồ Tát.

(2) (3): Phật Quang Đại Từ Điển, các trang 4058, 5515, 2619.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/07/2021(Xem: 5316)
Buổi trưa hè miền Trung, cái nắng nóng làm như ông Trời gôm hết lửa đổ xuống trần gian thiêu rụi vạn vật, không ai chịu nổi. Tất cả đều rúc hết vào nhà, đóng cửa trốn ông Trời, tranh thủ thời gian đó nghỉ ngơi. Hầu hết tìm giấc ngủ trưa để quên đi thời tiết khắc nghiệt. Chỉ riêng bốn đứa...tứ tặc gồm Nam, Thanh Du, Hiền và Bích Nga lang thang trên đường phố. Chúng la cà từ Ngã Tư Chính trung tâm phố đi lần về trường trung học Hùng Vương chỉ cách đó không xa, khoảng 15 phút đi bộ, nơi bốn đứa cùng học chung lớp đệ thất (lớp 6 bây giờ) dù Thanh Du và Hiền 12 tuổi đều hơn Nam và Bích Nga một tuổi.
25/07/2021(Xem: 5205)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 17067)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 4311)
Thế giới lại rối ren vì Delta biến thể Phong tỏa giản cách áp dụng khắp nơi Tâm trạng người dân mỗi lúc lại chơi vơi Đành chấp nhận ... tìm phương pháp nào cùng chung sống ! Đọc sưu tầm, chúng có thể chết nơi tần số cao rung động Thế mà chúng ta vô tình làm tần số thấp đi Nào hãy xem gồm những yếu tố gì ... Chao ôi ! Chính những lúc bất an căng thẳng,
21/07/2021(Xem: 7069)
Vì hiện nay tình hình phong tỏa tại Sài Gòn thật chặt chẽ, rất khó khăn cho chúng con, chúng tôi xin được Phép vào những khu vực cách ly để phát quà, vì vậy chúng con, chúng tôi đã linh động quyết đinh giúp cho những hộ nghèo ở ngoại ô Sài Gòn, những bà con lao động tay chân, buôn thúng bán bưng.. Một khi SG LockDown dài hạn, tình hình kinh tế sẽ ảnh hưởng dây chuyền, vì vậy chúng tôi thiết nghĩ không riêng gì SG mà những vùng lân cận đều bị ành hưởng hết, vì vậy mong các vì hảo tâm hoan hỉ cho quyết đinh này của Hội Từ thiện chúng tôi.. Hôm qua, chúng tôi vừa thực hiện một đợt phát quà hỗ trợ cho 200 hộ nghèo. Kính mời quí vị đọc nguyên văn lời Tường trình của Ni Sư Huệ Lạc:
19/07/2021(Xem: 5480)
TÔI SẼ TRÌNH BÀY một tóm tắt nền tảng giáo lý của Đức Phật về Bốn Chân Lý Cao Quý – khổ đế (sự thật về khổ đau), tập đế (sự thật về nguồn gốc), diệt đế (sự thật về chấm dứt), và đạo đế (sự thật về con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ.) Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất. Nếu không có một sự thông hiểu về Bốn Chân Lý Cao Quý thì chúng ta không thể tiến hành sự học hỏi và thấu hiểu một cách đầy đủ về bản chất của thực tại phù hợp với Đạo Phật. Nhưng trước nhất, tôi muốn nói rõ rằng tất cả những tôn giáo quan trọng có cùng năng lực, cùng thông điệp và mục tiêu, qua đó tôi biểu lộ lòng mong muốn chân thành để mang đến những điều kiện tốt đẹp hơn cho thế giới, một thế giới hạnh phúc hơn với những con người từ bi hơn. Đây là những gì mà tất cả các tôn giáo quan trọng cùng chia sẻ.
18/07/2021(Xem: 4787)
Nơi gia đình chúng tôi sinh sống, có một nhóm người gốc BÌNH TRỊ THIÊN. Đặc tính cố hữu của bất cứ dòng tộc, quê quán nào khi người Việt đi đến đâu là luôn mang theo phong tục tập quán vùng miền cổ truyền nơi họ đã sinh ra. Đến nơi ở mới, họ cố gắng duy trì tập quán đó, vì họ thấy rất rõ phong tục tập quán chính là diền mối lễ nghĩa duy trì lễ giáo gia đình, duy trì nền nếp thiết lập hạnh phúc cho con cháu.
18/07/2021(Xem: 4966)
Tâm là một trong hai yếu tố thành lập nên con người. Tâm không phải là vật chất. Tâm trừu tượng, nên chúng ta không thể trông thấy hay sờ mó tâm được. Tuy tâm không có hình dáng như thân vật chất, nhưng không có nó thì con người không thể sống được. Tâm là những cảm xúc vui vẻ hạnh phúc, là những ưu tư phiền muộn, khổ đau, là những nhớ nhung suy nghĩ, là sự hiểu biết, là trí tuệ của con người. Những thứ này gom lại thành nguồn năng lượng sống tạo nên nhân cách của con người tốt hay xấu. Tùy theo năng lượng thiện hay bất thiện, từ đó tâm sẽ đưa ta đến cảnh giới tương ưng. Đó là cảnh giới an vui hay đau khổ, Niết-bàn hay địa ngục, Phật hay ma, tất cả đều do tâm tạo.
16/07/2021(Xem: 4854)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ:
14/07/2021(Xem: 4393)
Có một câu hỏi ngàn năm trước người ta đã đặt mà chưa có lời giải đáp thỏa đáng đó là “Tại sao tôi xấu, tôi nghèo, tại sao cuộc đời của tôi như thế này?” Các đạo thờ thần nói rằng đó là ý chỉ của Thượng Đế. Còn Đông Phương trước khi có Đạo Phật du nhập nói rằng đó là định mệnh do Trời-Đất an bài. Đã là ý chỉ của Thượng Đế hay định mệnh thì không thể cải sửa được như cụ Nguyễn Du đã nói: Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]