Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tết & sự thăng hoa trong đời sống

13/01/201201:15(Xem: 8561)
Tết & sự thăng hoa trong đời sống
Tết & sự thăng hoa trong đời sống
Thị Giới

Không biết Tết có từ bao giờ vàbắt nguồn từ đâu, nhưng đúng là Tết có một cái hồn. Dù sống ở đâu và làm gì,người Việt trên khắp thế giới ít ai không rạo rực mỗi khi Tết về. Tết cũng là ngày hội lớn của cả nước đã có từ ngàn xưacho nên cái hồn của Tết cũng là một phần cái hồn của đất nước. Trong Tết có mùivị đất và nước của quê hương.

Có một truyền thuyết nói rằng, xưa kia, vào ngàyTết, vua Hùng và quần thần đưa nhau lên núi (Thiên Cầm) để nghe “cung đàn nhàtrời”. Thật là một hình ảnh đẹp.

Một người ngoại quốc viết về Tết:

“… Tôi không hiểu được Việt Nam và văn hóa Việt Nam cho đến khi tôi hiểu được Tết.Đó không phải là một việc đơn giản và dễ dàng. Khí hậu có thể lạnh và tôi cóthể phải ăn nhiều, tôi có thể sợ tiếng pháo nổ. Nhưng bên sau tất cả những thứđó là một niềm vui, ý thức về sự thay đổi và niềm hy vọng vào tương lai. Tiếngđộng đánh thức đêm tối dày đặc. Phổi tôi có thể khó thở vì khói, đầu tôi có thểđau vì tiếng pháo nổ, nhưng cơ thể tôi cảm thấy sinh động và khoan khoái mộtcách lạ lùng, và quan trọng nhất, một tâm thức cảm nhận được sức mạnh của nhữngđiều xảy ra quanh tôi. Việt Namđã thay đổi. Ít nhất trong những phút giây ngắn ngủi, nó bình bồng giữa thực vàmộng, giữa trời và đất. Là một người ngoại cuộc, có thể tôi không bao giờ hiểutrọn vẹn ý nghĩa của Tết, nhưng tôi biết rằng tôi đang tận mắt nhìn thấy mộtcái gì đẹp đẽ và quý giá. (DanaSachs)

Nếu hỏi cái hồn của Tết nằm ở chỗ nào thì khó ai cóthể chỉ ra, nhưng nó thấm đẫm trong lòng người, hiện ra qua phong cách sống gắnliền với Tổ tiên non nước, với đình đài chùa miếu, qua những phong tục, lễ nghikết nối quá khứ với hiện tại, hữu hình với hữu hình, hữu hình với vô hình…

Một khía cạnh đặc biệt đẹp đễ của ngày Tết là việcbiểu hiện lòng nhớ ơn. Cái nhớ ơn của người Việt bao gồm nhớ ơn Tổ quốc, đồngbào, nhớ ơn tiền nhân, cha mẹ, nhớ ơn những người đã đem đến cho cộng đồng niềmtin và sức mạnh, làm cho cuộc sống thăng hoa và có ý nghĩa. Nếu so sánh với sựnhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơntrong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh. Ơn Tam bảolà ơn những cội nguồn đã đem đến cho con người một đời sống tinh thần phongphú, vượt qua sự hạn hẹp của đời sống ích kỷ, hơn thua. Người Việt chúng taluôn luôn nhớ ơn những bậc được gọi là người hiền. Những vị thánh thiện, nhữngvị có đời sống thăng hoa được thờ phụng khắp nơi trên đất nước. Đôi khi, nhữngvị có công với đất nước được đồng hóa với những vị Thánh, như Thánh Gióng đuợcđồng hóa với Tỳ Sa Môn Thiên Vương là một vị Thánh giúp đời, hộ Đạo, cũng là mộtvị Cổ Phật trong truyền thống Phật giáo, để trở thành Phù Đổng Thiên Vương.

Tết cũng biểu hiện tính chất Lễ và Hòa trong đờisống Việt. Tình cảm tương quan giữa con người với nhau và với thế giới hữu hìnhcũng như vô hình của người Việt là một thứ tình cảm đậm đà và lãng mạn mà khôngra ngoài Lễ và Hòa. Tết là ngày vui, ngày tỏ bày tình cảm trong Lễ và Hòa.

Không gian và thời gian Tết cũng như những tínhchất của Tết được tô bồi qua nhiều ngàn năm, làm cho Tết trở nên một cơ hội chongười Việt chúng ta dừng lại để sống thật sự với đời sống. Cũng có thể nói Tếtlà một cơ hội để chúng ta “sống chậm”. Sống chậm là một lối sống biết soi rọichính mình. Khi biết soi rọi chính mình, con người sẽ sống tự giác và có tráchnhiệm hơn. “Sống chậm” có thể nói là một nhu cầu của thời đại, khi mà khuynhhướng vật chất và trục lợi khống chế hầu như mọi sinh hoạt của con người. Nhữngkiêng cữ trong ngày mồng một Tết có thể được coi như một loại “kiêng cữ để sốngchậm”: ý tứ trong từng ý nghĩ, hành động và lời nói để không giận hờn hay tạosự giận hờn, không nói năng và hành động thô lậu, ồn ào, giữ tâm hồn thoải mái,vui tươi… Nói tóm lại là cố gắng giữ thân, miệng, ý không tham, sân, si hay tạora tham, sân, si trong ngày Tết.

Tết cũng là ngày của hoa. Hai loại hoa đặc trưngcủa Tết là đào và mai. Hoa là hình ảnh của cái đẹp vô thường, ngắm hoa là ngắmsự mong manh vô thường của đời sống. Và chính sự vô thường làm cho đời sống cóý nghĩa và con người có cơ hội thăng hoa.

Trong đời sống bận rộn hàng ngày, chúng ta thườngkhông để ý nhận ra cái nền tảng hướng dẫn đời sống của chúng ta. Nó vô hìnhnhưng mạnh mẽ. Có thể nói đó là cái chất sống, cái nguồn sống trong mỗi chúngta. Và Tết, cơ hội để chúng ta có những khoảnh khắc dừng lại, là dịp để chúngta phát hiện ra “tố chất của đời sống” vốn có đó. Khi yên lặng lắng nghe hơithở, yên lặng lắng nghe bước chân đang bước, lắng nghe thời gian đang trôi,không gian đang mở…, chúng ta nghe được sự sống, nghe được nguồn sống đang hiệndiện bên trong cũng như bên ngoài chúng ta. Khi mở lòng để tiếp đãi đời sống,tiếp đãi đất trời, tiếp đãi mọi người mọi vật, chúng ta có cơ hội nghe được đờisống, nghe được nguồn sống nơi chúng ta và chung quanh chúng ta.

Ngày xưa các cụ thường khai bút đầu năm. Trong cáiyên tĩnh, lắng đọng của không gian và thời gian, con người mở ngỏ mọi ngăn cáchđể lắng nghe. Khai bút đầu năm có thể được coi là cơ hội để dừng lại và lắngnghe với một tâm hồn mở toang trong không gian và thời gian rộng lớn của giờphút giao thừa.

Do đó, Tết cũng có thể là cơ hội để chúng ta pháthiện ra hay tìm thấy lại chính chúng ta. Và sự phát hiện ra chính mình là bướcngoặt lớn trong đời sống của mỗi người. Đó là lúc con người nhận ra được mìnhthật sự là gì trong cái toàn thể để có thể sống có ý nghĩa hơn.

Mùa Xuân đất trời cho tôi sự liên tưởng đến một mùaXuân đạo. Mùa Xuân đạo có được khi con người biết trân trọng đối với đời sống,trân trọng đối với những cơ hội để thăng hoa mà cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàngban cho chúng ta. Những cơ hội đó có được từ tính chất vô thường của đời sống.

Nhận biết được vô thường là nhận biết được tánhPhật, nhận biết được “không thân”, để từ đó có được thân cùng khắp và tâm cùngkhắp, hay nói theo ngôn ngữ của kinh điển là có được “hiện nhứt thiết sắc thântam muội” và “giải nhứt thiết chúng sanh ngôn ngữ đà la ni”, để có thể đồnghành với tất cả chúng sanh trong không gian và thời gian vô tận, một lý tưởngthật đẹp của đạo Phật Đại thừa.

Tôi nhớ đến một phẩm trong kinh Pháp Hoa. Một điềuchúng ta để ý là trong kinh Pháp Hoa và những kinh Đại thừa khác, không gian vàthời gian thường rất rộng lớn. Không gian và thời gian là hai thứ tương quanmật thiết với nhau. Một tâm thức nhỏ hẹp luôn luôn tương ứng với một loại thờigian ngắn ngủi nhưng dường như nặng nề kéo lê. Một tâm thức rộng lớn luôn điđôi với một thời gian rộng lớn nhưng như thoáng qua nhẹ nhàng.

Phẩm Dược Vương Bồ tát Bổn Sư thứ 23 nói rằng, cómột vị Bồ tát tên là Tú Vương Hoa hỏi Phật về hành trạng của Bồ tát Dược Vươnghay Bồ tát Vua Thuốc. Đức Phật trả lời vị Bồ tát đó như sau:

Vào thời rất lâu về quá khứ, trong Pháp hội PhápHoa của Đức Phật hiệu Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức, Đức Phật có đức hạnh sáng rỡvà trong lành như mặt trời mặt trăng, có một vị Bồ tát tên là Nhứt Thiết ChúngSanh Hỷ Kiến, vị Bồ tát mà tất cả chúng sanh nhìn thấy đều sinh tâm vui vẻ. VịBồ tát đó, sau một thời gian dài tu tập kinh Pháp Hoa thì chứng được “hiện nhứtthiết sắc thân tam muội” hay khả năng “hóa hiện ra mọi hình tướng”.

Để báo đáp ân đức của Phật Nhựt Nguyệt Tịnh MinhĐức, Bồ tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường vô số những món trangnghiêm và thanh tịnh, sau đó tự đốt thân để cúng dường. Hành động đốt thân cúngdường được các Đức Phật trong mười phương đồng khen ngợi là việc cúng dườngPháp cao tột. Và khi nói xong lời khen ngợi đó, các Đức Phật “đều yên lặng”.(theo bản dịch của HT.Thích Trí Tịnh).

Sau khi đốt thân, Bồ tát Nhứt Thiết Chúng Sanh HỷKiến lại tái sanh cũng trong thế giới của Đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức vàgặp lại Phật này, được Phật giao phó mọi thứ trước khi Ngài nhập Niết-bàn.

Một lần nữa, vị Bồ tát mà tất cả chúng sanh nhìnthấy đều sinh tâm vui vẻ, lại dùng thân để cúng dường xá lợi Phật bằng cách đốthai cánh tay “trăm phước trang nghiêm”. Hành động đó cũng làm cho vô số ngườichứng được “Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội”.

Cuối cùng Đức Bổn Sư nói: Vị Bồ tát mà tất cảchúng sanh nhìn thấy sinh tâm vui vẻ đó chính là Bồ tát Dược Vương. Đức Phậtcũng nói rằng, những ai nghe phẩm kinh này sẽ được tam muội “Giải nhứt thiếtchúng sanh ngôn ngữ đà la ni” hay khả năng hiểu được ngôn ngữ của tất cả chúngsanh…

Phẩm kinh nói lên rằng, tánh Phật và cơ hội thănghoa ở ngay trong tính chất vô thường của đời sống. Nhận ra tính chất vô thường,vô ngã của đời sống, con người nhận ra tính chất “không thân” của mọi sự và củachính mình. Tính chất “không thân” cũng là ánh sáng soi rọi của Pháp, là chỗ màchư Phật “lặng yên”, là tánh Phật, là nền tảng của buông xả và tùy thuận, củakết nối và cảm thông, là thuốc chữa lành bệnh cho mình và cho người.

Trở lại với Tết. Với khả năng mở ngỏ mọi ngăn cáchđể tiếp xúc với nguồn sống chân thật, phải chăng trong dịp Tết, chúng ta có thểlà một vị Bồ tát mà tất cả mọi người nhìn thấy đều cảm nhận được niềm vui, trởthành những vị Bồ tát chữa lành bịnh cho nhau?

Trong khung cảnh kết nối và cởi mở, chấp nhận vàtương kính, con người chắc chắn sẽ đem đến cho nhau niềm vui. Một nụ cười, mộtlời chào hỏi, một câu xin lỗi, một chia sẻ thông cảm, một sự bỏ qua… chính lànhững thang thuốc chữa lành vô số chứng bịnh nan y của mình, của người.

Phải chăng sự mở lòng, xả bỏ, hòa nhập, kết nối…,nhìn thấy mối tương quan, tương thuộc giữa cá thể với toàn thể dễ nhận ra trongngày Tết làm cho con người đến gần hơn với tính chất “không thân” của đạo Phật,hiểu rõ hơn về “ánh sáng đốt thân” của chư vị Bồ tát?

Và phải chăng mọi ánh sáng đều phát xuất từ nềntảng “không thân”?

Thời gian là một chuỗi những biến đổi qua nhiềuthử thách để thoát thân thành những mùa Xuân. Chúng ta hãy như thời gian, theogương Bồ tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến, không ngừng thay đổi theo hướngthăng hoa mà thời gian luôn cho chúng ta cơ hội, để mỗi dịp Tết về, cảm thấygần gũi hơn với mùa Xuân chân thật, ở đó, mọi người là những vị Bồ tát củanhau.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2013(Xem: 12665)
Tạp chí nghiên cứu người tiêu dùng Journal of Consumer Research công bố một khảo sát năm 2012, kiểm chứng rằng tại sao người tiêu dùng là nam giới lại thường tránh xa chuyện ăn chay. Trong đó, khảo sát này nhấn mạnh "Thịt dường như đồng nghĩa với quyền lực và sức mạnh đàn ông".
30/10/2013(Xem: 39287)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
30/10/2013(Xem: 8422)
Một nữ doanh nhân nổi tiếng trong lĩnh vực địa ốc, nổi tiếng vì sở hữu nhiều ngôi nhà đẹp, từng có nhiều bài viết sắc sảo về kinh doanh. Thời gian gần đây chị “từ bỏ cuộc chơi” để tìm về với Phật pháp và chọn Huế là nơi chốn dừng chân của mình. Trong một thời gian ngắn từ 2010 đến nay, chị đã xây dựng ở Huế ba công trình từ thiện và nổi bật là Cát Tường Quân với kiến trúc độc đáo và thanh tịnh đang trở thành điểm đến của du khách mỗi khi dừng chân ở Huế.
29/10/2013(Xem: 12540)
Trong lá thư này, Lạt Ma Zopa Rinpoche trả lời cho một sinh viên học lâu năm với Ngài, một người đã viết thư để cảm ơn Ngài đã “cầu nguyện, dạy dỗ và che chở” trong nhiều năm qua. Người sinh viên xin được giấu tên hiện đang chăm sóc cho Mẹ đang chịu nhiều đau đớn về thể xác sau khi bị hàng loạt những cơn đột quỵ. Như là một phương pháp để đương đầu với những khó khăn khi chăm sóc, người sinh viên đã tưởng tượng như đang chăm sóc cho Ngài Zopa Rinpoche khi chăm sóc cho Mẹ cô.
26/10/2013(Xem: 62882)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
24/10/2013(Xem: 13236)
Thiền định là một phương tiện chủ yếu vô song của Phật Giáo giúp người tu tập trực tiếp đạt được Giác Ngộ. Đức Phật đã nhắc đến phép luyện tập này ngay trong bài thuyết giảng đầu tiên về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) khi Ngài nói về Sự Thật Cao Quý thứ tư và Con Đường Của Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chánh Đạo). Tuy nhiên không phải vì thế mà tất cả những người tự nhận mình là Phật tử đều luyện tập thiền định.
23/10/2013(Xem: 10033)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm. Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng, nhận thức và làm được nhiều việc đóng góp lợi ích thiết thực trong bầu vũ trụ bao la này.
19/10/2013(Xem: 8466)
Ngày 27, tháng 9, năm 2013 – “Nếu bạn có thể học đi xe đạp bạn có thể học làm thế nào để được hạnh phúc,” nhà sư Phật giáo 67 tuổi và là người hạnh phúc nhất trên thế giới nói. Khi còn nhỏ, nhà thơ Andre Breton, nhà làm phim Louis Buñuel và nhạc sĩ Igor Stravinsky là những vị khách thường xuyên của gia đình triết gia Ricard. Tuy vậy, nhận thấy đặc tính của những người bạn của song thân không có vẻ gì là hạnh phúc hơn nên Ngài đã tìm đến Hy mã lạp sơn bỏ sau lưng công việc của một nhà sinh học tại Viện Pasteur và thay đổi cuộc đời qua thiền tập. Tính đến lần cuối cùng, Ngài đã đạt được hơn 10,000 giờ đồng hồ. Phương pháp chụp MRI tinh tế tại phòng nghiên cứu về não bộ tại Wisconsin đã cho thấy mức lạc quan siêu đẳng và hầu như không có chút cảm nhận tiêu cực nào của Ngài. Ngài nói: “Tôi không thấy mọi thứ đều màu hồng nhưng những thăng trầm của cuộc sống không trụ trong tôi theo cách của đời thường.”
19/10/2013(Xem: 12387)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
17/10/2013(Xem: 8274)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên và năm 1917 lúc Ngài 22 tuổi đã xuất gia tu học tại chùa Quang Lộc tỉnh Quảng Ngãi với Pháp Danh là Chơn Qúy. Ngài thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh thuộc thế hệ truyền thừa thứ 7. Ngài sinh năm 1895 và viên tịch năm 1961.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]