Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý Nghĩa Hình Tượng Hộ Pháp Giới Thần Trong Đại Giới Đàn Phật Giáo Bắc Truyền

02/12/201102:47(Xem: 9775)
Ý Nghĩa Hình Tượng Hộ Pháp Giới Thần Trong Đại Giới Đàn Phật Giáo Bắc Truyền

Ý Nghĩa Hình Tượng Hộ Pháp Giới Thần Trong Đại Giới Đàn Phật Giáo Bắc Truyền

Thích Tâm Mãn

Tôngiáo là hiện tượng tự nhiên trong xã hội loài người, nơi để loài người gởi gắm và giải đáp hết thảy những nghi vấn của các hiện tượng tự nhiên cũng như siêu tự nhiên mà con người tìm không ra lời giải đáp. Từ hiểu biết thực tiễn xã hội thông qua trí tuệ của tôn giáo dẫn dắt con người thể nhập vào thế giới vô lượng vô biên của vũ trụ, từ hình tượng con người của thực tại xuyên qua sự thánh hóa của tín ngưỡng, hướng dẫn con người qua lại chính với bản thể chân như của mình. Đây là điều kiện duy nhất để tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển, đồng thời có địa vị vững chắc không gì lay chuyển nổi trong xã hội loài người.

Khi nói đến tôn giáo thì điều đầu tiên được nhắc đến ai là người sáng lập, tôn giáo đó tín ngưỡng sùng phụng vị thần nào? Thuộc đa thần giáo hay nhất thần giáo. Nếu nói Phật Giáo là một tôn giáo thì cũng không thể thiếu những điều kiện đã nêu trên. Phật Giáo được ra đời trong một xã hội có nhiều tín ngưỡng thánh thần nhất trên thế giới, Giáo nghĩa của Phật Giáo được ung đúc và tập thành từ kho tàng văn hóa triết học cổ đạiẤn Độ, một trong những cái nôi văn hóa trí tuệ của loài người. Điều gì khiến cho Phật Giáo không bị đồng hóa trong kho tàng trí tuệ đó và đồng thời thoát ra khỏi sự quản lý nghiêm khắc của thế giới thánh thần. Chínhđây là nét đặc trưng Trí Tuệ Bát Nhã của Đức Phật đồng thời là sự diệu dụng thần thông của A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Khi các giáo nghĩa của các tôn giáo khác rơi vào chấp có chấp không, thì Phật dạy: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”chấp vào chủ tể sinh vạn vật thì Phật thuyết: “Nhất thiết nhân duyên sinh” chấp phải khổ hạnh hay tự do buông thả Phật chỉ rõ con đường “trung đạo”chấp tướng của các pháp thì Phật dạy:“thị chư pháp không tướng”. Trùngtrùng duyên khởi, Pháp Pháp sắc không, tự tại viên mãn và đây là con đường Phật dạy để Phật Giáo thoát khỏi sự đồng hóa trí tuệ hữu lậu tiến đến vô lậu giải thoát Niết Bàn.

Khi các tôn giáo khác chủ trương phụng thờ đa thần hoặc nhất thần. Cúng tế phụng thờ thần chủ tể để được ngài ban phúc hoặc lo sợ ngài sẽ giáng họa. Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành, ta không phải là thần cho nên không banphúc hay giáng họa cho ai, phúc họa là do chính mình tạo và hãy tự mìnhthắp đuốc lên mà đi”nói như thế không có nghĩa là trong Phật Giáo không có thánh thần, mà nhiều khi thánh thần còn nhiều hơn cả các tôn giáo khác.

Đức Phật được tôn xưng là thầy trong ba cõi, từ phụ của bốn loài, cho nên hết thảy chúng sanh nếu còn ở trong Tam Giới đều là đối tượng để hóa độ của chư Phật, đồng thời là đệ tử trong quá khứ hay trong hiện tại và ngay cả vị lai của chư Phật Bồ tát, điều này thường được thấy ghi chép trong các kinh điển của Đại Thừa. Trong Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Tựa thứ nhất chép:“Lúcbấy giờ Thích Đề Hoàn Nhơn cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên tử câu hội…Bốn vị Đại thiên vương…Tự tại thiên tử…Chủ cõi ta bà Phạm thiên vương, Thi khí thiên vương, Đại quang minh thiên vương… có tám vị long vương…có bốn vị Khẩn na la vương…có bốn vị Càn thát bà vương…có bốn vị Atu la vương…Ca lầu la vương…cả chúng đều lễ dưới chân Phật, lui về ngồimột phía…”

Chư Thiên và các vị thần của Phật Giáo khác với các tôn giáo khác ở chỗ, những tôn giáo thờ thần thì thần là đối tượng để sùng bái, lễ lạy, cầu xin, còn đối với Phật Giáo thần tiên trở thành những vị thần thính chúng nghe Phật thuyết pháp, ngộ đạo rồi phát tâm hộ trì chánh pháp và trở thành Hộ Pháp Thần của Phật Giáo. Trong Kinh Pháp Hoa phẩm Đà La Ni thứ hai mươi sáu chép: “Bấy giờ Tỳsa môn thiên vương vị trời hộ đời, bạch Phật rằng; “Thế Tôn chúng con cũng vì thương tưởng chúng sanh ủng hộ vị Pháp sư đó mà nói Đà la ni….Trì quốc thiên vương…con cũng dùng thần chú Đà la ni để ủng hộ ngườitrì kinh Pháp Hoa…mười vị La sát nữ cùng với quỷ Tử mẫu… chúng con cũngmuốn ủng hộ người đọc tụng thọ trì kinh Pháp Hoa…”

Hộ Pháp thần trong pháp hội, hay Hộ Giớithần trong giới hội đều có chung một ý nghĩa như nhau đều là phát tâm hộ trì chánh pháp. Trong Phật Quang Từ Điển Chú: “Hộ Pháp là các vị Thiện thần Phát tâm hộ trì Phật Pháp còn gọi Hộ Pháp thần, Hộ Pháp Thiên. Gồm các vị như Phạm Thiên, Đế Thích, Kim Cang Lực sĩ, Tứ Thiên Vương, Hộ thế Bát thiên Vương, 10 vị La Sát Nữ, 12 vị thần tướng, 16 vị thiện thần, 28 bộ chúng thần, 30 vị Phiên thần, 36 vị thần vương, 18 vị Già lam thiện thần, Long vương , quỷ thần.v.v…”trong kinh Tô Bà hôĐồng tử thỉnh vấn chép: “đạo tràng phải thanh tịnh, dâng hoa hiến hương, tức được chư Hộ Pháp thiện thần và chư Phật Bồ tát ảnh hiện hộ trì.”

Hộ Giới Thần là những vị thần phát tâm hộ trì Giới Pháp. Trong kinh Quyền Đảnh quyển 4 chép: “Nhữngvị thiện thần thủ hộ Giới Pháp do Phật chế. Người thọ trì Tam Quy Y có 36 bộ quỷ thần vương hộ trì , người thọ ngũ giới có 25 vị thiện thần hộ trì canh ngoài cửa ra vào trừ diệt hết các việc hung ác…”.Giới ĐàiPhật Giáo Bắc Truyền có 72 vị thiện thần phát tâm Hộ Giới. Theo sách Chư Tôn Yếu Sao 72 vị thiên thần phát tâm hộ giới chép: “ Gồm Thái Sơn Phủ Quân, Ngũ Đạo Đại Thần, Đại Cát Tường thiên cùng 69 vị thiên thần, tổng cộng là 72 vị. 69 vị thiên thần gồm có Tứ Bích Bất Động thiên vương, tứ Đại Minh vương, Thập Nhị thiên, Bắc Đẩu Thất Tinh, ThậpNhị Cung Thần, Ngũ Tinh, Nhị Thập Bát Tú.

Giới Đàn là thọ mạng của Phật Pháp, nơi kế thừa Tăng mạch, sự việc hết sức trọng đại của Phật Giáo, khiến cho pháp giới chư Thiên phát tâm hộ trì cho Giới Đàn cũng như Giới Pháp là việc hiển nhiên không có gì mới lạ và khó hiểu, có khác ở chỗ vì Giới Đàn có lập Giới Đài nên việc trang nghiêm cho Giới Đàn, đồng thời tạo thêm cảnh tượng thâm nghiêm của Giới Pháp nên tạo tượng Hộ Giới Thần an trí trên Giới Đài cho đúng cách, còn nếu như không đủ điều kiện lập GiớiĐài thì tâm niệm hộ trì thì ý nghĩa cũng như nhau.

Người thọ tam quy y Phật dạy có 36 vị Giới Thần hộ giới, Kẻ trì ngũ giới Phật sắc 25 vị thiện thần hộ trì, Tăng truyền Đại Giới người xuất gia thọ trì Cụ Túc giới là nhân thành tựu một vị Phật trong tương lai vô số chư Thiên tán thán, vạn thế thánh thần hộ trì là điều chân thật. Trong Giới Đàn Đồ Kinh chép: “Nơi nào có Giới Đàn nơi ấy các vị thiện thần ứng thân hộ giới.” trong sách Đại HọcHoằng Giới chép: “ đây là việc trọng đại của trời người cho nên Thánh Phàm đều phát tâm hộ trì..” Thứ nữa người đăng đàn thọ Cụ Túc giới là người đủ tướng đại trượng phu cụ bị 72 oai nghi và muôn ngàn tế hạnh, cho nên 72 vị hộ giới thần hộ trì cho người đầy đủ 72 oai nghi tế hạnh, đây là pháp tương ưng trong Phật Giáo và phép tròn đầy viên mãn pháp số của Đại Thừa Phương Đẳng.

Phật Pháp bất ly thế gian, trong thế có Phật, Phật không rời thế. Đạo Phật ngoài các vị thiên thần Hộ Pháp hộ giới ra còn có rất nhiều thiện hữu tri thức, bằng trí tuệ của mình, bằngphước đức và tài lực của mình với tinh thần hộ trì chánh giới mà phát tâm bố thí hộ pháp, hộ giới. Tinh thần vô kỷ vị tha này là những vị Hộ Pháp thần sống của Phật Giáo, chính vì những vị hộ thần sống mà Phật Giáo mới có sự trang nghiêm và thù thắng của Giới Đàn như ngày hôm nay. Họ là thần trong tinh Thần tùy hỷ công đức, họ là Thiên trong ý niệm hộ trì, họ là hiện thân viên mãn nhất của pháp giới hộ thần, họ là hình ảnhsâu sắc nhất trong hải hội Thiên Phật Giới đàn. Nhất Tâm đảnh lễ Nam MôHộ Giáo Hộ Giới Chư Vị Thiện Thần, Tứ Đại Trọng Ân Bồ Tát Ma Ha Tát.

hp2

Đức Triều Thiên Hộ Pháp trong Đại Giới Đàn Cam Lộ

hp

72 vị Giới Thần trong Đại Giới Đàn Cam Lộ

hp1hp3hp4

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5598)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5519)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6919)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4305)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9136)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5461)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5083)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5680)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6172)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5181)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]