Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoàn thiện cuộc sống nhờ Phật Pháp

28/11/201111:53(Xem: 5850)
Hoàn thiện cuộc sống nhờ Phật Pháp

lotus_3
HOÀN THIỆN CUỘC SỐNG NHỜ PHẬT PHÁP

SUNIL J. WIMALAWANSA
(TRẦN KHIẾT BÁCH dịch)


Phật giáo không hoàn toàn là một tôn giáo theo cái nghĩa mà từ này vẫn được hiểu , vì Phật giáo không phải là “ một hệ thống tín điều và nghi lễ thờ cúng liên kết bất kể tín đồ nào đó với một chủ tể siêu nhiên ”.

Phật giáo không kêu gọi sự tin tưởng mù quáng nơi những ngưới tin theo . Ở đây , sự tin tướng thuần túy bị hạ bệ và được thay thế bởi sự tự tin dựa trên hiểu biết gọi là tín tâm ( hay Saddha trong ngôn ngữ Pali ) , Niềm tin mà người Phật tử đặt vào Đức phật cũng giống như niềm tin của người bệnh đặt vào một thầy thuốc giỏi , hay niềm tin củ người học trò đặt vào người thầy của mình . Một người Phật tử quy y Phật chỉ vì chính đức Phật là người tìm ra và và dạy cho Phật tử ấy con đường giải thoát . Một người Phật tử không quy y Phật với hy vọng là Đức Phật sẽ cứu rỗi mình bằng sự thanh tịnh của Ngài . Đức Phật không bao giờ đưa ra lời bảo đảm ấy . Đức Phật không nhận rằng Ngài có năng lực thanh tẩy mọi cấu uế của kẻ khác . Không ai có thể làm thanh tịnh ai hoặc làm uế nhiễm ai .

Làm rõ mục tiêu của người học Phật

Giáo pháp của Đức Phật nhắm tới việc hướng dẫn con người thoát khỏi những điều bất hạnh và sự đau khổ , đồng thời chỉ cho họ con đường đạt tới hạnh phúc và an lạc cao nhất . Với lòng từ bi vô lượng của Ngài , suốt 45 năm , Đức Phật đã dạy cho toàn thể loài người về nhân và duyên . Mục tiêu của sự giáo huấn ấy là giúp con người có thể hiểu được những hành động nào nên theo và những hành động nào nên tránh . Vậy thì , mục tiêu tối hậu của chúng ta trong lúc học theo giáo pháp của Đức Phật phải là hãy học để phân biệt đươc những lối sống tai hại , gây hủy diệt với những lối sống tốt đẹp , mang lạy lợi ích ; học để phân biệt được những lối sống gây đau khổ với những lối sống đưa tới an lạc thanh bình .

Mục đích của việc học tập và hành trì Phật pháp

Phật giáo là lối sống công bằng mang lại hạnh phúc và an bình cho mọi chúng sinh ; và phương pháp gạt bỏ maoi5 đau khổ và bất hạnh để tìm đến sụ tự giải thoát . Giáo pháp của Đức Phật không giới hạn vào quốc gia nào hay chủng tộc nào , đó là giáo pháp dành cho mọi người . Phật giáo không chỉ là tín ngưỡng hay một niềm tin đơn thuần . Đó là giáo pháp chp toàn thể loài người thuộc mọi thời đại . Mục tiêu của Phật giáo là sự phục vụ vô ngã , là thiện chí , là hòa bình , là sự cứu giúp , và là sự tự do trước mọi đau khổ . Không gây hại và có thiện chí là những yếu tố mà mọi tôn giáo đều nói tới . Nhưng hơn thế nữa , Phật giáo dựa trên những nhuyên lý hòa bình , bình đẳng , hài hòa ; cho nên trong Phật giáo không có chỗ cho lòng ghen tức hay sự bạo động . Niềm tin của Phật giáo về thiện chí và lòng từ tâm dựa trên sự hy sinh và tinh thần phục vụ để mang lại bình an và hạnh phúc cho người khác . Cho nên , những nguyên lý của tôn giáo nên được áp dụng một cách tích cực nhằm cải thiện phẩm chât cuộc sống cho tất cả mọi chúng sinh . Việc thực hành giáo pháp của Đức Phật sẽ làm phát triển sự thức tỉnh tự nội , lòng từ bi và tuệ giác . Một trong những lý do khiến Phật giáo có sức cuốn hút đối với giới trí thức và những người có trình độ học vấn cao nằm ở chỗ chính Đức Phật đã thực sự khuyên mọi tín đồ đừng tin vào những gì được nghe mà không kiểm chứng giá trị của chúng .

Phật giáo là một tôn giáo cao quý , một nền triết học nơi đó khai thác tối đa sự công chính , sự bình đẳng và sự hòa bình . Chủ đề trung tâm cảu Phật giáo là sự giữ gìn . Giáo pháp của Đức Phật dạy rằng phụ thuộc vào người khác để được cứu giúp là tiêu cực , chỉ có trông chờ vào chính mình mới là tích cực . Giáo pháp ất giải thích thêm rằng phụ thuộc vào người khác có nghĩa là đầu hàng trước sự thong minh , sự thự tin và những nổ lực của người khác . Hơn nữa Phật giáo công nhận sự hiểu biết và những nỗ lực của con người về mọi thành tựu , chứ không công nhận một đấng siêu nhiên nào . Kinh Tương Ưng Niệm Xứ dạy rằng : Trong khi hộ trì cho mình , là hộ trì người khác , trong khi hộ trì người khác là hộ trì cho mình ..Thế nào là trong khi hộ trì người khác là hộ trì cho mình ? Chính là do sự kham nhẫn , do sự vô hại , do lòng từ , do lòng bi mẫn.

Điều quan trọng là phải nhận thức rằng sự cứu giúp theo lời dạy của Đức Phật , là một vấn đề cá nhân . Chỉ có hành giả mới cứu giúp được chính hành giả ; hệt như hành giả tự ăn , tự uống , tự ngủ nghỉ . Giáo pháp của Đức Phật chỉ là phương tiện cho thấy con đướng đúng để thành tựu sự cứu giúp ấy . Đức Phật không hề giảng pháp để cải tạo ai cả . Ngài giảng pháp chỉ để người nghe được giác ngộ . Về phương diện này , Phật giáo không bi quan mà cũng chẳng lạc quan . Phật giáo không khuyến khích con người nhìn vào cuộc đời thông qua những cảm giác thường xuyên biến đổi vì tính bi quan hay sự lạc quan của con người . Phật giáo khuyến khích con người hãy thực tế , hãy học để thấy cuộc đới đúng như nó hiện là .

Phật giáo là hiện thực

Phật giáo có một cái nhìn hiện thực đối với cuộc đời . Phật giáo không giả vờ đẩy chúng ta vào sống trong một thiên đường giả tưởng , cũng không hề dọa dẫm hay khủng bố chúng ta về những sợ hãi tưởng tượng hay những cảm giác tội lỗi . Phật giáo gọi tên một cách chính xác và khách quan ta là gì và thế giới ta đang sống là gì ; đồng thời chỉ cho ta thấy con đường hoàn thiện sự tự do , hòa bình , an lạc và hạnh phúc . Phật giáo hoàn toàn trái ngược với thái độ bất mãn , lo lắng , hối hận và u sầu của tâm thức , thực tế vốn dược coi là trở ngai cho việc thực hiện Chân lý . Mặt khác giáo lý của Đức Phật nhấn mạnh rằng niềm vui ( hay hỷ ) chính là một trong Bảy giác chi , những phẩm chất thiết yếu phải được rèn luyện để thực hiện Niết- bàn .

Một trong những cách để hiểu biết rõ về sự sống là hiểu biết về cái chết , vốn chẳng gì khác hơn sự chấm dứt tạm thời của một sự hiện hữu tạm thời . Tuy nhiên , hầu hết chúng ta đều không thích nghe đến từ “ chết ”. Nhưng dù cho chúng ta có thích hay không , chết là sự kiện chắc thật duy nhất trong cuộc sống của chúng ta , nó đến một cách từ từ . Mặc dù vậy , những hồi ức về cái chết với một thái độ tâm thức đứng đắn có thể mang lại cho con người sự can đảm , sự hiểu biết , và một cái nhìn thấu suốt vào bản chất của sự hiện hữu ; đồng thời phát triển được một sự bình tĩnh khi đối mặt với cái chết . Trong khi người phương Tây tìm cách chinh phục vũ trụ cho những mục đích vật chất , Phật giáo và nền triết học phương Đông cố gắng đạt tới sự hòa hợp với thiên nhiên , với môi trường , với sự thỏa mãn về tâm linh .

Hầu hết những kẻ giàu có trong thế giới ngày nay , mặc dù những của cải và những phương tiện hiện đại của họ , vẫn luôn đau khổ vì sự bấp bênh của cuộc đời , vì những lo lắng và vô số những vấn đề về thân và tâm . Với tất cả tiền bạc và những mối giao tiếp mà họ có , họ không thể tìm được giải pháp cho những vấn đề và sự đau khổ của họ . Ngược lại , một người nghèo nhưng đã học được sự hài lòng có thể hưởng thụ cuộc sống của mình một cách thanh thản , hơn hẳn những người giàu có nhất . Khi đã hài lòng , người ta chẳng có gì để mất và có rất ít lo âu .

Có những kẻ có quá nhiều nhưng vẫn khao khát

Tôi có chút ít mà chẳng tìm kiếm thêm

Vậy thì họ vẫn nghèo tuy họ có quá nhiều thứ

Còn tôi thì giàu với những thứ ít ỏi của mình

Họ nghèo , tôi giàu , họ xin , tôi cho

Họ thiếu , tôi thừa , họ mõi mòn , tôi an vui.

Phật giáo kêu gọi trí tuệ hơn là tình cảm . Phật giáo quan tâm đến phẩm chất của tín đồ hơn là số lượng tín đồ . Nền tảng của Phật giáo là Tứ thánh đế , gồm có Khổ , nguyên nhân của Khổ , sự chấm dứt Khổ ( hay Niết- bàn ) và Con đường ở giữa ( hay Trung đạo ). Nhiều người nghĩ rằng Phật giáo là cả một hệ thống uy nghi , chẳng thể nào có ngu phu , ngu phụ thực hành được . Người khác lại cho rằng chỉ trong các chùa chiền hay tu viện người ta mới có thể thực hành theo đạo Phật . Những hiểu lầm ấy sở dĩ có là vì người ta không hiểu rõ giáo pháp của Đức Phật không chỉ dành cho các vị xuất gia trong các tu viện . Giáo pháp ấy dành cho mọi người bình thường như Tôi và Các bạn . Tứ diệu đếBát chánh đạo, lối sống của Phật giáo , là nhắm tới mọi người . Khi một người hiểu được tinh thần đạo Phật một cách đúng đắn , ngưới ấy có thể thực hành đạo Phật ở bất cứ nơi nào .

Nguồn : Perfecting Life through Buddhism, Sunil J . Wimalawansa Buddhist Channel

Sunil J. Wimalawansalà giáo sư y khoa chuyên về Sinh lý học và Sinh học hệ thống tại Trường Y Khoa Robert Wood Johnson thuộc Đại học New Brunswick , bang New Jersey , Hoa Kỳ ; một trong những người có thành tựu trong việc nghiên cứu điều trị bệnh tiểu đường .


SUNIL J. WIMALAWANSA (TRẦN KHIẾT BÁCH dịch) ( VHPG 127)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5597)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5517)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6914)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4301)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9125)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5458)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5082)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5676)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6166)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5176)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]