Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sống Để Làm Gì ?

06/05/201106:26(Xem: 6613)
Sống Để Làm Gì ?

buddha
SỐNG ĐỂ LÀM GÌ?

Thích Đạt Ma Phổ Giác


Như ai cũng biết, chúng ta sinh ra đời để sống và làm việc như bao nhiêu người trên thế gian này. Đó là ăn uống, ngủ nghỉ, rồi lớn lên lấy vợ lấy chồng, đi làm kiếm tiền nuôi bản thân, gia đình và đóng góp lợi ích xã hội, đến khi lớn tuổi về hưu thì già bệnh rồi chết. Đó là nói những người làm việc nhà nước có chính sách chế độ lương hưu. Còn những người tự làm tự sống, không làm việc nhà nước thì họ phải bươn chải đến khi không còn khả năng làm việc nữa mới thôi. Ai có phước thì được con cái chăm sóc, giúp đỡ, nuôi dưỡng khoảng đời còn lại.

Chúng ta ai cũng nghĩ ăn uống, ngủ nghỉ cho sướng cái thân, mình đi làm kiếm tiền cũng chỉ để nuôi sống bản thân và tìm kiếm sự sung sướng, hạnh phúc chứ không ai dại gì đi tìm nỗi bất hạnh, khổ đau. Trên đời này ai cũng mưu cầu hạnh phúc, từ kẻ cùng đinh hạ tiện cho tới vua chúa quan quyền, tổng thống, thủ tướng, giám đốc đến người làm công, ngay cả những người xuất gia đi tu cũng vì muốn tìm một sự an lạc, hạnh phúc chân thật. Cái bản năng đi tìm kiếm hạnh phúc này hình như đã ăn sâu vào trong tâm khảm của mỗi người.

Nhưng ít ai nghĩ rằng mọi người từ đâu đến, sinh ra đời để làm gì và sau khi chết sẽ đi về đâu? Một người bình thường sẽ trả lời: "Ta từ bụng mẹ chui ra, sinh ra đời để sống như bao người khác và chết thì trở về với cát bụi. Thế là hết một kiếp người!" Chúng ta mới nghe thấy dường như xuôi tai, nhưng thực tế không phải đơn giản như vậy. Chết không phải là hết mà chết chỉ thay hình đổi dạng tuỳ theo nghiệp nhân đã gieo tạo trong hiện tại mà cho ra kết quả ở tương lai. Chính vì vậy, ta phải sống làm sao ngay nơi cõi đời này để có được bình yên, hạnh phúc chân thật.

Có người đang học giữa chừng phải nghỉ học và bắt đầu đi làm việc để tìm kế sinh nhai. Có người được học tới nơi tới chốn rồi sau đó mới kiếm việc làm. Khi có công ăn việc làm ổn định thì chúng ta mới nghĩ đến chuyện cưới vợ, lấy chồng để xây dựng hạnh phúc gia đình. Ta sống với vợ hoặc chồng một thời gian cũng cảm thấy hạnh phúc nhưng đến lúc có con thì bắt đầu từ đó…. Có con rồi thì mọi việc lại khác đi, gánh nặng gia đình bắt đầu nhiều hơn với chuyện cơm áo gạo tiền, chuyện công ăn việc làm, chuyện ổn định đời sống gia đình cùng với nhiều nỗi lo toan khác. Cuối cùng, hạnh phúc có được chẳng bao nhiêu mà thấy toàn chuyện buồn phiền, thất vọng não nề bởi nhu cầu sống ngày càng cao mà khả năng làm ra tiền có giới hạn.

Cuộc đời có nhiều cái thật oái ăm! Chúng ta vì thấy biết sai lầm do si mê chấp ngã cho thân này là mình thiệt nên muốn chiếm hữu, từ đó ta mới hành động tạo nghiệp xấu ác và cuối cùng phải chịu quả khổ đau không có ngày thôi dứt. Muốn hết khổ thì chúng ta phải học hỏi và tu sửa. Tu là sửa và cũng có nghĩa là chuyển hoá hoặc thay đổi những thói quen xấu thành tốt. Muốn vậy, chúng ta phải có trí tuệ, muốn có trí tuệ thì chúng ta phải có thời gian để nghiệm xét, quán chiếu soi sáng thân tâm, hoàn cảnh để thấy tất cả đều vô thường. Nhờ vậy, ta mới dần hồi chuyển hoá tâm si mê chấp ngã.

Nhưng có nhiều người lại lầm tưởng rằng tu là tránh né, chạy trốn cuộc đời nên họ mới tìm một chỗ yên thân để tu tập chuyển hoá. Muốn tu hành trước tiên chúng ta cần phải có thầy lành bạn tốt hướng dẫn để tu tâm sửa tánh chứ không phải bỏ trốn lên rừng sâu núi thẳm. Sau một thời gian tu học, chúng ta cần phải đối diện, tiếp xúc với cuộc đời để phát triển khai mở tâm từ bi rộng lớn nhằm giúp đỡ, sẻ chia với mọi người khi có nhân duyên. Hoa sen không thể mọc và nở nơi thiên đường mà mọc ở nơi bùn lầy.

Chúng ta muốn hết phiền muộn, khổ đau thì phải tu, phải sửa, cái gì hư hỏng thì sửa lại cho tốt đẹp. Những gì có hình tướng thì ta sửa lại được, còn sửa tâm thì ta phải từ bỏ những tâm niệm xấu ác có tính cách làm tổn hại người vật. Cho nên, tu sửa như vậy còn được gọi là chuyển hóa; chuyển phiền não tham-sân-si thành vô thượng trí tuệ từ bi; chuyển bất hạnh, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. 

Mục đích của tu là sửa những thói quen xấu có hại cho mình và người. Cho nên, ta cần phải dùng pháp của Phật để chuyển hoá phiền não tham-sân-si bằng cách tụng kinh, sám hối, ngồi thiền, niệm Phật-Bồ tát, bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia với người bất hạnh rồi nghiệm xét, quán chiếu thân tâm, hoàn cảnh để thấy rõ tất cả đều vô thường.

Đọc tụng là bước đầu để hiểu lời Phật dạy, kế tiếp là chúng ta phải thực hành nhằm sửa đổi những cố tật phiền não tham lam, giận hờn, ích kỷ, ganh ghét, tật đố. Càng niệm Phật-Bồ tát tâm ta càng thanh tịnh, vắng lặng, không bị phiền não tham-sân-si làm xao xuyến, vọng động nên ta hãy siêng năng tinh tấn nhiều hơn. Càng tụng kinh ta càng hiểu đạo, bớt chấp trước, dính mắc, đắm nhiễm thì ta nên tụng kinh nhiều hơn nữa. Càng ngồi thiền chúng ta càng cảm thấy an lạc, hạnh phúc vì biết buông xả các tạp niệm xấu ác thì ta càng phải ngồi thiền nhiều hơn nữa.

Nhưng đọc kinh, niệm Phật-Bồ tát, niệm hơi thở, ngồi thiền chỉ là phương tiện buổi đầu, sau đó chúng ta cần dùng thiền quán để xem xét muôn loài vật mà biết rõ bản chất thật giả của thân tâm và hoàn cảnh, nhờ vậy ta dễ dàng buông xả mọi chấp trước ở đời. Sau khi đã thuần thục phép chỉ và quán, chúng ta quay lại chính mình để sống với Phật tính sáng suốt thường biết rõ ràng, nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý mà thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát.

Con người là một chúng sinh có tình thức và sự hiểu biết, tức là có tình cảm, vì có tình cảm nên mới có buồn thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua. Trong nhà Phật thường nói đến ba nghiệp "thân-miệng-ý", gọi là ba cánh cửa tạo ra vận mệnh tốt xấu của chúng ta. Có ý nghĩ rồi phát sinh lời nói và dẫn đến hành động thiện cảm hay ghét bỏ. Chúng ta sẽ tu sửa ngay nơi ý nghĩ, lời nói và hành động của mình. Đây là cái gốc của sự tu hành chân chánh. Kính mong mọi người ai cũng ý thức được điều này để làm hành trang trên bước đường tu học của chính mình cho đến khi nào thành Phật viên mãn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/12/2020(Xem: 5064)
Ngày 10 tháng 12 vừa qua, theo Bình Nhưỡng đưa tin (KCNA) – Trong số những Di sản Văn hóa quý giá đất nước Triều Tiên có “Cao ly Bát Vạn Đại Tạng kinh” (고려 팔만 대장경, 高麗八萬大藏經, 80.000 Wooden Blocks of Complete Collection of Buddhist Scriptures” được khắc mộc bản vào nửa đầu thế kỷ 11, triều đại Vương quốc Koryo (918-1392).
19/12/2020(Xem: 4980)
Lối xưa người đến dạo chơi, Hoá thành chú Tiểu, học lời Thầy Trao. Thênh thang mây trắng hôm nào, Ra vào chốn tịnh, trăng sao gối tình.
13/12/2020(Xem: 6020)
Một học giả nổi tiếng người Anh, làm việc cho trường đại học ở Luân Đôn, nổi tiếng vì ông đã dịch một số sách vở Phật giáo từ tiếng Hoa. Trong số những ấn bản đã in của ông có tác phẩm “Cuộc Đời của Thánh Tăng Huyền Trang, The Life of Hsuan-Tsang”. Cư sĩ Samuel Beal sinh vào ngày 27 tháng 11 năm 1825, nguyên quán tại Greens Norton, một ngôi làng ở Nam Northamptonshire, Vương quốc Anh, vị học giả nổi tiếng Phương Đông học, vị Phật tử người Anh đầu tiên trực tiếp dịch những tác phẩm văn học Phật giáo từ tiếng Hoa sang Anh ngữ, ban đầy những ghi chép kinh điển Phật giáo, do đó góp phần làm sáng tỏ lịch sử Ấn Độ.
11/12/2020(Xem: 6034)
Phật giáo Hàn Quốc phải chịu đựng nỗi đau chưa từng có của “Pháp nạn 27.10” (10·27 법난, 十二七法難), nhưng chư tôn tịnh đức tăng già đã biến đau thương thành sức mạnh. Chẳng bao lâu, nỗi đau ấy đã thăng hoa thành động lực để sớm hồi sinh trong phúc lợi xã hội, và những thành tựu đáng kể bắt đầu đạt được trong các lĩnh vực xã hội dân sự, thông qua tổ chức phi chính phủ (NGO), nhân quyền, giao lưu liên Triều (Nam Bắc Hàn) và phúc lợi xã hội.
11/12/2020(Xem: 5533)
Mối quan hệ giữa Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc được minh họa rõ nhất qua lời của tác giả, nhà báo, nhà sử học và nhà tây tạng học, Cư sĩ Claude Arpi, người Pháp, người đã viết một loạt các tác phẩm quan trọng về Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc, bao gồm “Số phận Tây Tạng: Khi Những Côn trùng lớn ăn thịt Côn trùng bé; The Fate of Tibet: When the Big Insects Eats Small Insects”.
10/12/2020(Xem: 6245)
Trong số nhiều ấn phẩm sách báo, thư từ cũ xưa mà mẫu thân truyền giao cho tôi gìn giữ, bảo quản để làm tư liệu để viết lách sáng tác, tôi tìm thấy được quyến sách “Thi phẩm Từng giọt Ma Ni” (xuất bản năm 1993, bìa sách là tranh của Họa sĩ Phượng Hồng), cùng 02 phong bì thư của “Tạp chí An Lạc” được gửi qua bưu điện từ Sài Gòn ra Nha Trang vào năm 1966, trên các kỷ vật quý hiếm này đều có lưu thủ bút của một bậc danh tăng Phật giáo nước nhà: Hòa thượng Thích Thông Bửu.
10/12/2020(Xem: 5371)
Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais sinh năm 1887 tại Cincinnati, thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là cụ ông John Coblentz và mẫu thân là cụ bà Margaret Norman Coblentz. Vốn mồ côi cha từ thuở ấu thơ, mẹ phải vất vả đùm bộc trong cảnh gà mái nuôi con; Jacques Marchais đã đến các trại mồ côi và các mái ấm khác nhau trong suốt thời thơ ấu, và tuổi thanh xuân 16, bà đã trở thành diễn viên tham gia vào một bộ phim Boston Peggy From Paris, nơi bà gặp người chồng đầu tiên Brookings Montgomery. Bà sinh được ba người con, hai gái Edna May và Jayne, và con trai, Brookings.
08/12/2020(Xem: 14856)
29/ Nhị Tổ Huệ Khả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Năm, 01/10/2020 (15/08/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Bổn lai duyên hữu địa, Nhơn địa chúng hoa sanh, Bổn lai vô hữu chủng, Hoa diệc bất tằng sanh. Xưa nay nhơn có đất, Bởi đất giống hoa sanh, Xưa nay không có giống, Hoa cũng chẳng từng sanh Nam Mô Đệ Nhị Tổ Huệ Khả Tôn Sư 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Múi giờ : pháp thoại mỗi ngày của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 https://www.facebook.com/quangducwebsite
07/12/2020(Xem: 5538)
Cư sĩ Giuseppe Tucci (dʒuˈzɛppe ˈtuttʃi; sinh ngày 5 tháng 6 năm 1894 – mất ngày 5 tháng 4 năm 1984), Học giả tiên phong người Ý, nhà Đông phương học, Ấn Độ học, Đông Á học, người đã xuất bản một số sách, mở đầu cho việc nghiên cứu tôn giáo, lịch sử và văn hóa của Tây Tạng. Ông là một trong những học giả Tây phương đầu tiên du hành một cách rộng rãi trên khắp vùng cao nguyên, Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng và các vùng phụ cận, những sách xuất bản của ông thường nổi tiếng về cả nội dung lẫn sự phiêu lưu mạo hiểm của ông trong khi làm nghiên cứu.
06/12/2020(Xem: 5488)
Đạo phật ngày nay đang xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền. Lối sống được mọi người noi theo là tĩnh thức và hiện tại. Làm sao đạt được điều ấy? Và tại sao sống tĩnh thức và hiện tiền là chấm dứt khổ đau? Trong khi theo Phật dạy Tứ diệu đế thì tu tập diệt tận cùng lậu hoặc diệt khổ đau. Sống tĩnh thức là theo 4 y của Phật dạy: y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa. Sống hiện tiền là sống trong thiền định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]