Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm niệm Thánh Đản

13/04/201105:23(Xem: 6620)
Cảm niệm Thánh Đản
Phat Dan Sanh 21
CẢM NIỆM THÁNH ĐẢN

Như Đức

Tháng tư, những cây phượng vẫn còn nở đỏ rực. Đi ngang con sông thấy nhánh phượng gie bên bờ, một vầng hoa đỏ như ngọc chói chang trong nắng. Tôi chợt nhớ đến Ngọc Phượng, bạn cùng lớp hồi xưa và nhớ luôn Thu Thảo ngồi cạnh nó. Hai đứa như hai thái cực. Thu Thảo thì hiền lành ít nói, suốt buổi học chẳng thấy hé môi, còn ngọc Phượng thì tía lia không ngớt. Vì sự đối nghịch đó mà bạn bè thường nhớ hai đứa một lần. Riêng Thu Thảo có một cái họ rất lạ. Ngày đầu tiên nghe cô giáo kêu tên Lục Thu Thảo, cả lớp quay ngược quay xuôi để ngó mặt nó. Con nhỏ cũng cừ, bị bạn bè chọc ghẹo là bà con của Lục Vân Tiên, lục nồi, lục bình... gì gì đi nữa, nó vẫn làm thinh. Chỉ có một lần, khi cô dạy văn giảng hai câu thơ của bà Huyện Thanh quan: Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương... nó bị đổi tên thành Hồn Thu Thảo. Chúng tôi vừa kêu vừa cười như mọi lần, nhưng nó đứng lên thưa cô, nó nói chữ lục là màu xanh trong, ba nó dặn nó như thế. Cô giáo cũng đồng ý và rầy cả lớp, không được chọc ghẹo tầm bậy. Chúng tôi mới biết nó tuy ít nói nhưng không phải dễ chịu thua.

Ký ức về Phượng và Thảo đối với tôi không phải dừng ở chỗ tên họ. Chúng tôi thường học bài chung với nhau ở sân chùa, và vào những ngày lễ vía hay rằm lớn, quý cô hay đem cho xôi chè, trái cây. Đó là những món quà thần tiên, như trái ổi hay chùm mận hái được từ vườn chùa. Đặc biệt vào những dịp lễ Phật Đản chúng tôi như hòa vào không khí chuẩn bị tươi vui, Phượng và Thảo có khi ở lại ăn cơm, ngủ lại với tôi. Trang trí vườn Lâm-tỳ-ni là chuyện thích nhất. Chúng tôi làm hoa giấy, kết vào những chậu hoa đặt chung quanh chỗ Phật đản sanh, kết thành chuỗi treo chung với hoa lài, hoa sứ, học làm đèn hoa sen, dự lễ phóng đăng, lễ tắm Phật. Mỗi đứa được múc nước thơm tưới lên tượng sơ sinh. Không khí trầm hương nhã nhạc, thôi không nói làm gì, nỗi vui mừng chào đón Đản sanh mỗi năm đều lặp lại mà chúng tôi vẫn ưa thích.

Khi lớn lên, biết suy xét, Ngọc Phượng chia sẻ với tôi những suy tư của nó, cũng trong một dịp Phật Đản. Nó vốn là cây triết lý của lớp ban C, nên trích dẫn xa gần mấy câu thơ: “Tôi bước vào đời như loài thảo mộc. Rồi bỗng lớn lên như lũ thú rừng...”. Bài thơ nói đến thân phận người, sinh ra tình cờ như cỏ cây, không chủ động đời sống, không biết phải làm gì trong thế giới này. Rồi đến kết cuộc... “Sáng sáng dừng chân nhìn quanh lớp học. Nhìn lại đời mình buồn đến thế ư?” Tôi biết bài thơ này của N.X.H. bạn bè trong lớp cũng có đứa thuộc. Nhưng Phượng đi xa hơn, nó nói đó là sự tìm kiếm, sự than vãn, và đặt câu hỏi về sự toàn vẹn. Chỉ có một người có thể trả lời, đó là đức Phật. Với một người như thế, với một đời sống bắt đầu và kết thúc đều có mục đích hướng đi rõ cũng như thế thì ngày sinh nhật của vị ấy mình tổ chức long trọng, chào mừng vui vẻ. Có những tiệc tùng sinh nhật mà mình tham dự một cách ngán ngẩm vì không biết kẻ ấy ra sao. Cách nói của Phượng, bạn bè trong lớp vẫn gọi nó là cụ non, nhưng chúng tôi phải công nhận nó đúng.

Thời gian chia cách đã lâu. Giữa chúng tôi có những dòng thay đổi, có những dòng đời chưa kịp chạm đến đã đi xa. Thu Thảo bây giờ chắc đang độ mùa thu, không còn như thuở xanh trong, đứng giữa lớp cãi lý cho một mầu lục non. Phượng cũng không còn đỏ rực. Chúng tôi đều đi vào tuổi tri thiên mệnh. Ở tuổi này Khổng Tử cho rằng người ta đã sáng suốt, tỉnh táo, biết sống thuận lẽ đạo. Tôi đi theo con đường của Đức phật, càng lúc cùng cảm nhận điều đó. Một vị Phật ngay từ khi vào đời, đã biết được lẽ minh triết trong cuộc sống, không đợi phải đi qua tuần tự thời gian. Ngày trẻ tuổi chúng tôi vẫn thường lý luận về đạo, nhưng vẫn vấp phải vô số lỗi lầm, nếu nhìn lui vô số đời, ắt là si mê vô cùng, giữa những quờ quạng mệt nhọc không biết bao lần hỏi “Đời mình buồn đến thế ư?” Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư. Thấy biết được việc làm của mình, biết giá trị sự có mặt của chính mình, và biết sống không đến nỗi uổng đời. Những điều đó nếu không đi theo sự chỉ dạy của Phật, nếu đóa hoa Đàm không một lần xuất hiện, chúng ta vẫn không ngừng than khổ. Tôi muốn chia sẻ cảm nhận và niềm tri âm sâu xa đức Phật, với bạn bè cùng thời, như Phượng chẳng hạn.

Biết lý luận, đặt câu hỏi và biết người giải đáp câu hỏi, nhưng Phượng có thể không tìm nó ngay dưới chân đức Phật. Trong đời sống, giữa những phức tạp đa đoan, vào một ngay thật bình thường, ta chợt nhận ra ánh sáng bình minh của lễ Thánh Đản.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/12/2010(Xem: 6429)
Nói đến chữ tu, có người lầm tưởng rằng phải bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ vợ con để tìm nơi non cao thanh vắng, hoặc ở chùa, ở am mới gọi là tu. Không phải như thế đâu, tu có nghĩa là sửa đổi, trau dồi. Sửa là sửa hư, sửa sai, sửa lạc lầm, sửa xấu thành tốt, sửa dữ thành hiền, tà vạy thành ngay thẳng, tối tăm thành sáng suốt, si mê thành giác ngộ, phàm phu thành thánh hiền, chúng sanh thành Phật, sanh-tử thành Niết-Bàn.
03/12/2010(Xem: 5587)
Một đệ tử đang ở trong tù viết thư cho Rinpoche khẩn cầu ngài ban những thực hành cho quãng đời còn lại của anh. Rinpoche đã trả lời như sau. Bài do Michelle Bernard biên tập.
03/12/2010(Xem: 18034)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
30/11/2010(Xem: 11702)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâm và trí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
28/11/2010(Xem: 8133)
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
27/11/2010(Xem: 11604)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
25/11/2010(Xem: 26784)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
25/11/2010(Xem: 12947)
Cuộc sống xô bồ và dồn dập trong các xã hội phương Tây không cho phép một số người có thì giờ đọc toàn bộ những quyển sách liên quan đến các vấn đề khúc mắc của tâm linh. Vì thế nhiều tác giả chọn lọc các lời thuyết giảng, các câuphát biểu ngắn gọn hoặc các đoản văn ý nghĩa nhất để gom lại thành sách giúp người đọc dễ theo dõi và tìm hiểu, vì họ muốn đọc hay muốn dừng lại ở đoạn nàocũng được. Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sáchtheo thể loại trên đây. Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-lai Lạt-ma vềPhật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo chọn lọc từ các bài diễn văn,phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
23/11/2010(Xem: 7099)
Chiếc y của người xuất gia Phật giáo biểu trưng cho sự thanh bần, giản đơn, và quan trong hơn cả là nó nối kết người mặc với vị thầy bổn sư của mình - Đức Phật...
22/11/2010(Xem: 15771)
Trong phần thứ nhất, Đức Đạt-Lai Lạt-Ma giảng về Bồ-đề tâm và cách tu tập của những người Bồ-tát. Trong phần thứ hai, Ngài giảng về Triết lý của Trung Đạo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]