Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Các học giả Anh quốc và Phật giáo Âu Mỹ

29/03/201102:58(Xem: 10275)
Các học giả Anh quốc và Phật giáo Âu Mỹ

CÁC HỌC GIẢ ANH QUỐC VÀ PHẬT GIÁO ÂU MỸ
HT.Thích Trí Chơn
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

cachocgiaanhquoc-phatgiaoaumy-bia

LIGIITHIU

Tác phẩm “Các học giả Anh quốc và Phật giáo Âu Mỹ” của HT. Thích Trí Chơn là tác phẩm đầu tiên về thể tài này ở Việt Nam, phác thảobức tranh về những đóng góp tri thức của giới học giả Anh quốc cho sự hoằng truyền và mở rộng Phật giáo ở phương Tây.

Mặc dù tác giả khiêm tốn xác định phạm vi ảnh hưởng trong các châu lục Âu Mỹ, sự đóng góp của 20 tác giả và dịch giả Phật học nổi tiếng được nêu trong tác phẩm này vượt xa các giới hạn địa lý và châu lục. Cácđóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa, đạo đức và tâm linh đặc sắc của đạo Phật vốn đã tồn tại ở châu Á gần 26 thế kỷ. Các đóng góp nàyđã làm thay đổi cục diện tôn giáo toàn cầu, đánh tan các lập luận thiếuthiện chí như đức Phật chỉ là một huyền thoại, không phải là nhân vật lịch sử; học thuyết của đức Phật chỉ là sự tích hợp tâm linh của Bà-la-môn giáo.

Hàng trăm các dịch phẩm từ kinh tạng Pàli và các tác phẩm giới thiệu về tư tưởng, triết lý và lịch sử đạo Phật của các học giả trong quyển sách này đã làm thay đổi nhận thức của giới lãnh đạo chính trị, triết học và tôn giáo toàn cầu từ hậu bán thế kỷ XIX trở đi. Nhờ các nỗ lực khai thông trí thức, con đường truyền bá Phật giáo cho cộng đồng quốc tếngoài châu Á ngày càng được rộng mở. Nhờ đó, Phật giáo trong bối cảnh toàn cầu hoá được xem là tôn giáo ngoại lai phát triển nhanh nhất và mạnh nhất trong thế giới Âu Mỹ. Điều đáng ngạc nhiên và thán phục, con đường truyền bá Phật giáo thực ra là sự đánh thức lương tâm, thuyết phụctrí thức và tâm linh phương Tây; khác hoàn toàn với lịch sử truyền giáocủa các đạo Công giáo, Tin Lành và Hồi giáo ở châu Á vốn gắn liền với dấu giày thực dân xâm lược.

Trong số 20 tác giả và dịch giả nổi tiếng, đã có 5 vị là Hòa thượng bao gồm Silacara, Ananda Metteya, Ernet Hunt, Nanamoli, Sangharakshita và một nữ học giả trở thành Tỳ- kheo ni cuối đời là I.B. Horner. Để tiệnbề tra khảo về phương diện lịch sử và các đóng góp, HT. Thích Trí Chơn đã sắp xếp các tác giả và dịch giả Phật học theo niên đại thời gian, bắtđầu từ George Turnour (1799-1843) và kết thúc ở Sangha- rashita (1925-), người còn sống duy nhất trong các học giả tên tuổi đóng góp to lớn cho nền Phật học phương Tây.

Mỗi nhân vật trong tác phẩm được biết đến qua hai gốc độ: thân thế sựnghiệp và các tác phẩm/dịch phẩm. Giới thiệu một cách ngắn gọn, tác giảđã phác họa chân dung của các nhà Phật học Anh quốc tầm cỡ, trong số đócũng có những người theo Thiên Chúa giáo và Tin Lành giáo từ khi biết đạo Phật đến lúc qua đời. Điều đó cho thấy các giá trị minh triết của Phật giáo vượt khỏi các rào cản của tôn giáo, địa lý và thời gian, tiếp tục tồn tại đến ngày hôm nay, phục vụ cho lợi ích của số đông, mang lại an vui hạnh phúc cho con người.

Tôi tin tưởng rằng tác phẩm này không chỉ là tài liệu tham khảo có giá trị cho ngành lịch sử truyền bá Phật giáo quốc tế mà còn là những bài học về sự đóng góp và hy sinh. Nói cách khác, các đóng góp về hoằng pháp càng gặp nhiều thách đố và khó khăn chừng nào càng tỏa sáng các giátrị phục vụ nhân sinh.

Dù không trình bày hết những đóng góp của các tác giả và dịch giả Phật học trong một quyển sách khái quát này, HT. Thích Trí Chơn đã làm một công việc rất có ý nghĩa và giá trị tham khảo cho các nhà Phật học Việt Nam. Giới thiệu và xuất bản tác phẩm này đến quý độc giả như cách gián tiếp thể hiện lòng tôn kính và tri ân với các nhà hoằng pháp tiền bối trong tác phẩm này nói riêng và trên toàn hành tinh nói chung.

Kính mong Phật pháp mãi trường tồn và mỗi người con Phật đều là nhữngngọn đuốc soi đường cho công trình “Vì lợi ích cho số đông, vì phúc lợicho loài người” mà đức Phật đã kêu gọi ngay sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề.

Thích Nhật Từ


LỜI NÓIÐU

Kể từ sau ngày đức Thế Tôn nhập diệt vào năm 543 trước Tây Lịch, theocổ sử Phật Giáo, vua A Dục (Asoka) của Ấn Ðộ (trị vì: 273-232 trước T.L.) là vị vua Phật tử đầu tiên đã có công truyền bá Phật Giáo đến các nước Tích Lan (Sri Lanka), Miến Ðiện và nhiều quốc gia Á Châu khác. Bia ký của A Dục cho biết rằng đức vua cũng đã gửi các phái đoàn hoằng pháp đến Macedonia, một vương quốc Châu Âu thời cổ (nay thuộc miền bắc Hy Lạp), Tiểu Á và Ai Cập. Nhưng rất tiếc ngày nay không một sử liệu nào ghi chép về những phái đoàn truyền giáo của vua A Dục còn tìm thấy tại các vùng nói trên.

Theo tài liệu của các học giả Tây Phương, sự tiếp xúc giữa Châu Âu với Ấn Ðộ khởi đầu kể từ khi Alexander the Great (A Lịch Sơn Ðại Ðế: 356-323 trước T.L.) của Macedonia (Hy Lạp) mang quân sang xâm lăng phía bắc xứ này vào năm 326 trước Tây Lịch. Ông Megasthenes (250-290 trước T.L.), sử gia Hy Lạp vào năm 300 trước Tây Lịch, với tư cách là sứ thần đã đến viếng thăm kinh đô Pataliputra (Hoa Thị Thành) dưới triều vua Chandragupta của Ấn Ðộ (324-300 trước T.L.). Năm trăm năm sau Megasthenes trong cổ sử Hy Lạp, lần đầu tiên người ta thấy có ghi chép nhắc đến Phật Giáo.

Nhưng vào các thế kỷ sau đó, thế giới Tây Phương hầu như không ai biết gì về Phật Giáo. Ðến thế kỷ 13, Marco Polo (1271-1295) nhà du lịch ÝÐại Lợi, sau khi đi vòng quanh viếng thăm nhiều nước Á Châu trở về, trong cuốn du ký “Description of the World” (Tường Thuật về ThếGiới), ông có trình bày qua về lịch sử đức Phật cùng những sinh hoạt Phật Giáo ở Trung Hoa, Tây Tạng và Tích Lan v.. v.. Năm 1497-98, Vasco da Gama (1460-1524), nhà hàng hải Bồ Ðào Nha du hành bằng đường thủy sang Ấn Ðộ mở đầu một trang sử mới trong việc giao thương giữa Á và Âu Châu.

Từ thế kỷ XVI đến XVIII nhiều giáo đoàn Thiên Chúa đã sang truyền đạoở các nước Ðông Phương. Một số giáo sĩ vì muốn thuận lợi, thành công trong việc rao giảng đạo Chúa nên họ đã cố gắng tìm hiểu các phong tục, tập quán và tín ngưỡng của dân chúng địa phương để thích nghi. Do đó, họthấy cần liên lạc, tiếp xúc học hỏi với các nhà Sư Nam Tông ở Ấn Ðộ, Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Lào quốc lẫn Bắc Tông tại Trung Hoa, Tây Tạng và Nhật Bản v.. v..

Chẳng hạn năm 1542, Franciscus Xaverius (1506-1552), một giáo sĩ DòngTên (Jesuit) Tây Ban Nha đã qua Ấn Ðộ và năm sau ông đế Goa (miền Tây Ấn). Tại đây, Xaverius gặp Yagiro, một thương gia Nhật Bản và ông này đãgiải thích cho Xaverius biết về lịch sử đức Phật, lễ nghi và đời sống của chư Tăng theo Phật Giáo. Ngày 24-09-1714, giáo sĩ Dòng Tên Ippolito Desideri (1684-1733) rời Delhi (Ấn Ðộ) đi Lhasa (Tây Tạng) và ông tới đây ngày 18-03-1716. Linh mục Desideri đã vào ở trong chùa năm năm để học tiếng Tây Tạng và nghiên cứu Phật Giáo.

Tuy nhiên từ những thế kỷ đầu công nguyên đến thế kỷ XVIII, đa số những người Châu Âu trong đó có các giáo sĩ Thiên Chúa, thích tìm hiểu Phật Giáo chỉ vì lý do tò mò, hiếu kỳ hoặc mong thành công trong việc giao thương buôn bán cũng như nhằm vào các mục tiêu vì quyền lợi chính trị hay tôn giáo chứ không phải họ thực tâm muốn học hỏi, hành trì đúng theo những lời dạy của đức Phật.

Có thể nói từ thế kỷ XIX trở về sau các nhà trí thức Tây phương mới bắt đầu chú tâm nghiên cứu Phật Giáo qua kinh tạng Nam Tông tiếng Pali hoặc Bắc Tông tiếng Phạn (Sanskrit). Các học giả này bao gồm cả Phật tử và không Phật tử của nhiều quốc gia Âu-Mỹ từ Anh, Pháp, Ðức, Ý, Bỉ, Hòa Lan, Ðan Mạch, Thụy Ðiển đến Hung Gia Lợi, Nga Sô và Hoa Kỳ v.. v..

Chẳng hạn hai nhà ngôn ngữ học Pháp Eugene Burnouf (1801-1852) và ÐứcChristian Lassen (1800-1876) lần đầu tiên đã chung soạn cuốn tiếng Pháp“Essai sur le Pali” (Văn Phạm tiếng Pali) xuất bản vào năm 1826.

Học giả Ðức Karl Eugen Neumann (1865-1915) tốt nghiệp Tiến Sĩ (Ph.D.)về cổ ngữ Pali và Phạn (Sanskrit) tại đại học Leipzig năm 1890. Năm 1894, ông sang nghiên cứu Phật Giáo nhiều năm tại Ấn Ðộ và Tích Lan. Sauđó, ông đã dịch một số kinh Phật từ Pali ra tiếng Ðức như Kinh Trung Bộ(Majjhima Nikaya) xuất bản vào những năm 1896, 1902; và Trưởng Lão Tăng Kệ (Theragàthà), Trưởng Lão Ni Kệ (Therigàthà), ấn hành năm 1898.

Nhà ngữ học Ðan Mạch Michael Viggo Fausboll (1824-1908), tốt nghiệp đại học Copenhagen và thông suốt Pali lẫn Phạn Ngữ. Mặc dù không phải làPhật tử nhưng ông rất ngưỡng mộ đức Phật. Fausboll đã phiên âm tiếng Pali theo mẫu tự La Tinh kinh Pháp Cú (Dhammapada), xuất bản năm 1855. Ông cũng dịch từ Pali ra Anh văn những bài kinh trong Kinh Tập (SuttaNipàta) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikàya) năm 1881 và hoàn tất toàn tập năm 1884.

Louis de la Vallée Poussin (1869-1939), nhà Phật Học Bỉ (Belgium), tốt nghiệp môn ngôn ngữ học tại đại học Louvain (Bỉ) và Sorbonne (Pháp).Năm 1895, ông được mời làm giáo sư dạy tại đại học Ghent (Bỉ) hơn 30 năm và trong thời gian này ông chuyên nghiên cứu Phật Giáo, đặc biệt về phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin) của Nam Tông. Công trình vĩ đại của giáo sư Poussin là ông đã dịch từ Phạn (Sanskrit) ra tiếng Pháp Bộ Luận Câu Xá (Abhidharmakosa) của ngài Thế Thân (Vasubandhu) vào những năm 1923-1931.

Nói tóm, sự đóng góp của các nhà Phật Học Âu Mỹ cho nền Phật Giáo TâyPhương từ thế kỷ XIX đến nay qua những công trình trước tác, dịch thuậtcủa họ thật vô cùng to lớn. Rất khó cho chúng tôi có thể trình bày, liệt kê hết tất cả những học giả của các quốc gia Âu-Mỹ nói trên trong một cuốn sách. Do vậy, tác phẩm sau đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu vớiquý bạn đọc hai mươi (20) nhà Phật Học danh tiếng gồm cư sĩ lẫn chư Tăng của Anh quốc mà thôi. Tương lai có dịp chúng tôi sẽ viết về sự đónggóp cho nền Phật Giáo Âu Mỹ của các học giả ở những nước khác như Ðức, Pháp, Hòa Lan, Ðan Mạch, Nga và Hoa Kỳ v.. v..

Mặc dù đã cố gắng hết sức tìm tòi và tra cứu ở nhiều tài liệu kinh điển, sách báo Phật Giáo, chúng tôi chắc chắn vẫn không tránh khỏi có những điều sai lầm, sơ sót. Chúng tôi kính mong quý chư tôn thiền đức, và các bậc cao minh thức giả sẽ vui lòng bổ chính cho những lỗi lầm thiếu sót nếu có, để sau này cuốn sách sẽ được hoàn chỉnh, đầy đủ hơn trong kỳ tái bản.

Phật Học Viện Quốc Tế

Ngày 15 tháng 08 năm 1996

Mùa An Cư năm Bính Tý

HT. THÍCH TRÍ CHƠN

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/10/2010(Xem: 6847)
Trước hết, chúng ta đã ý thức được tầm cỡ có tính cách toàn cầu của một số vấn đề bức xúc đang đối mặt với chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ biết được làm thế nào để huy động trí tuệ và sức mạnh của nhân dân thế giới để giải quyết một cách tốt đẹp những vấn đề đó. Thí dụ các vấn đề chiến tranh và hòa bình, vấn đề xây dựng một nền trật tự kinh tế mới, một nền trật tự đạo đức mới cho thế giới, vấn đề bảo vệ môi trường của chúng ta.
10/10/2010(Xem: 4879)
Giữa cơn lốc biến động xã hội đầy kịch tính của cuối thế kỷ 20, trước sự sụp đổ của con người đối với các vấn đề khủng hoảng sinh thái tâm linh và môi trường, mùa Phật lại trở về như nguồn suối hạnh phúc chảy vào tâm thức mọi người.
10/10/2010(Xem: 7188)
Lẽ thường trong chúng ta, ai ai cũng đều có một cái “cái ngã”, hay “bản ngã”. Không những cái ngã của chính mình mà còn ôm đồm cái bản ngã của gia đình mình, của bằng hữu mình, của tập thể mình, của cộng đồng xã hội mình, của tôn giáo mình, của đất nước mình, và thậm chí cho đến cái bản ngã của chủ nghĩa mình; dù đó là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, hay chủ nghĩa hiện sinh...
09/10/2010(Xem: 6958)
Sáutu sĩ khổ hạnh quấn trên người những chiếc áo bạc màu bụi đường cùng nhau "tiến sâu vào lãnh thổ của xứ Ma-kiệt-đà"(Magadha) trong thung lũng sông Hằng (PhổDiệu kinh - Lalitavistara). Họ đixuyên ngang các thôn xóm và những cánh đồng xanh mướt. Chung quanh cảnh vật êm ảvà lòng họ thật thanh thản. Họ là những người quyết tâm từ bỏ gia đình để chọnmột lối sống khắc khổ, không màng tiện nghi vật chất mà chỉ biết dồn tất cả nghịlực để đi tìm bản chất của thế gian này và nguyên nhân đưa đến sự hiện hữu củachính họ.
06/10/2010(Xem: 5131)
Sở dĩ tôi nói tới ăn uống ở hàng đầu vì có thể tới 90 phần trăm những bệnh của con người là do ăn uống mà ra. Cơ thể ta luôn luôn giữ một mức độ thăng bằng trước những biến đổi ngoại cảnh. Ngoại cảnh có nóng hay lạnh, cơ thể vẫn giữ ở một mức độ 30 độ bách phân. Ngoại cảnh có làm tim ta đập nhanh hay chậm một chút nhưng sau đó cơ thể vẫn giữ ở mức độ 70 tới 100 nhịp tim mỗi phút. Cũng như vậy đối với huyết áp, số lượng máu, nồng độ của các chất hữu cơ hoặc vô cơ trong cơ thể. Ăn uống chính là đưa các chất ngoại lai vào cơ thể. Nếu đưa vào cho đúng cách, cơ thể sẽ được bồi dưỡng đầy đủ, hoạt động tốt. Nếu không cho đúng cách, hoặc quá nhi
06/10/2010(Xem: 13735)
Ngày nay, khái niệm An cư kiết hạ không còn xa lạ với những người đệ tử Phật. Theo Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma (q.4) giải thích nghĩa lý an cư như sau: “Thân và tâm tĩnh lặng gọi là an. Quy định thời gian ở một chỗ gọi là cư”.
06/10/2010(Xem: 6534)
Ngày Đức Thế Tôn dạy: “ không bao lâu nữa Ta sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn” Ngài A Nan lòng buồn vô hạn, với những nỗi lo hết sức chân tình, lo Phậtđi rồi lấy ai nương tựa, lo Phật không còn ai là người lèo lái con thuyền Phật Pháp, lo cho sự truyền thừa đạo mạch Phật Giáo mai sau.
05/10/2010(Xem: 5283)
Người tham muốn danh vọng, thì suốt đời giong ruổi theo quyền cao, chức trọng, danh thơm tiếng tốt. Họ bằng mọi thủ đoạn để lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, cố mong được địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, tìm đủ mọi cách để nắm giữ cho được cái danh vọng, hư ảo nhằm đạt được quyền lợi tối cao.
03/10/2010(Xem: 5462)
Người tham muốn ăn uống ngon hợp khẩu vị, thì suốt đời lân la bên cạnh những món ngon vật lạ, quanh quẩn bên những tiệc tùng, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ nên phải giết hại nhiều các loài vật để bồi bổ cho mình.
03/10/2010(Xem: 14966)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567