Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Ý Dâng Hương Cúng Phật Trong Nghi Lễ Phật Giáo Bắc Truyền

30/12/201005:02(Xem: 7551)
Lược Ý Dâng Hương Cúng Phật Trong Nghi Lễ Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC Ý
DÂNG HƯƠNG CÚNG PHẬT
TRONG NGHI LỄPHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

(chuaminhthanh.com): Dânghương cúng Phật, thắp hương cúng Phật, xông hương cúng Phật, là nét vănhoá đặc trưng của Tăng Tín đồ Phật Giáo Bắc Truyền. Người Đông phương khi nhắc đến đi chùa lễ Phật hay đến đình chùa miếu mạo lễ các bậc Tiên Thánh thiện Thần, điều trước tiên mọi người nghĩ đến là phải thắp hương cúng dường, khi có duyên sự cần cầu nguyện Chư Phật Bồ Tát hay khấn vái các vị Thánh Thần để hộ trì, thì cũng dùng hương để gởi lời nguyện cầu của mình đến chư Phật Bồ Tát các bậc linh thiên. Thắp hương cúng dường có mặt hầu hết trong các nghi thức, lễ tiết quan trọng cũng như trong sinh hoạt thường ngày của Tăng Tín đồ Phật Giáo Bắc Truyền.

Truyền thống thắp hương cúng Phật trong Phật Giáo có từ thuở Đức Phật còn tại thế, trong Kinh Trường A Hàm quyểnthứ hai Kinh Du Hành chép: “Đệ tử của Phật vì Đức Thế Tôn cất Tịnh Xá tolớn, chỉnh lý sửa sang quét dọn lại sân vườn, đốt hương cúng dường.” Trong Kinh Phật Thuyết Giới Đức Hương cũng có chép: “Ngài A Nan lấy hương làm đề tài để thỉnh Phật thuyết pháp, Đức Phật tuỳ duyên khai thị,người tu trì thập thiện, đức hạnh được vang xa, cũng như hương báu có mùi vi diệu được mọi người tán thán.”

Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm 19 Pháp Sư Công Đức chép: “…Như có người trì Kinh Pháp Hoa, có thể thành tựu800 công đức của mũi căn, được mũi căn thanh tịnh, có thể ngửi được cácloại hương thơm của các loại hoa trong tam thiên đại thiên thế giới.”

Tục xông hương, đốt hương hoặc thoa hương lên người có nguồn gốc từ Ấn Độ, do khí hậu khô nóng, thường ra mồhôi cho nên thoa hương lên người để trừ khử mùi hôi, thứ nữa thời tiết nóng nực khô hanh thường làm cho không khí oi bức khó chịu, xông hương lên làm tan đi cảm giác khó ở tạo nên không khí thơm nhẹ dễ chịu cho nênngười Ấn Độ thường xông hương trong nhà.

Từ những đặc điểm trên hương liệu trở thành vật liệu hữu ích và quý giá cho nên chỉ có tầng lớp Tu sĩ Bà La môn. Hoàng Gia, quý tộc mới có đủ điều kiện để sử dùng và dần dần trở thành cúng phẩm quý giá của những người thuộc các giai cấp dâng lên hiến cúng thần thánh trong các nghi tiết tôn giáo.

Đức Thích Tôn thành đạo Bồ đề bậc tôn quý nhất trên cỏi trần, thầy của trời người, cho nên chẳng những loài người dâng hết thảy các loại hương báu để cúng dường Ngài, mà chư Thiên cũng đem chủng chủng các loại thiên hương đến cúng dường Phật. Vì vậy xông hương, thắp hương, ướp hương cúng dường Phật là một nghi tức để đệ tử tỏ lòng cung kính cúng dường đối với Đức Phật, là nghi tiết không thểthiếu đối với Tăng Tín đồ Phật Giáo: “Nguyện thử diệu hương vân, biến mãn thập phương giới, cúng dường nhất thiết Phật ,Tôn Pháp chư Bồ Tát, vô biên Thanh Văn chúng, cập nhất thiết Thánh Hiền.”

Đại Thừa Phật Giáo hưng khởi cúng dường hương cho Phật đã trở thành một nghi tiết quan trọng không thể thiếu trong Phật Giáo Đại Thừa cho nên các vị Đại Thừa hưng giáo Tổ sư đều có những tác phẩm nói về hương, như Ngài Long Thọ Đại Luận Sư có bộ “Hương Hàm Bảo Man” và “Hoà Hợp Hương Pháp” Ngài Đông Phương Chi Quang, Đại Đường Huyền Trang Tam Tạng Đại Pháp Sư trong bộ Đại Đường Tây Vực Ký có chép về những loại hương được nhắc đến trong Kinh Pháp Hoa như: “Tu Mạn Nhiễm Hoa, Xà Đề Hoa Hương, Ba La Hoa Hương, Thanh Xích Bạch Liên Hoa Hương, Hoa Thụ Hương, Quả Thụ Hương, Chiên Đàn Hương, Trầm Thuỷ Hương, Đa Ma La Mạt Hương, Đa Già La Hương, Câu Đà La Thụ Hương, Mạn Đà La Thụ Hương, Thù Sa Hoa Hương, Man Thù Sa Hoa Hương.v.v…”

Từ Buổi đầu lịch sử khi Phật Giáo truyềnđến phương Đông, Tín ngưỡng thờ cúng của Phật Giáo là phương pháp hữu hiệu để truyền đạt chân đế của Phật Đà và đồng thời là con đường nhanh nhất đưa Đạo Phật hoà nhập vào trong xã hội, phong tục tập quán của người bản xứ, trong Hán Đường Phật Giáo Tư Tưởng Luận Tập chép: “Thời Nhà Hán hoàng gia và quý tộc vì tìm cầu thuật trường sanh, nên trong cung lập đền thờ Phật để cầu sự gia hộ của Phật để được trường sanh bất tử…

Đương thời Tôn Giáo tại Trung Quốc có ưuthế là lo việc thờ tự cúng kiến cho thế lực thống tri cho nên Phật Giáokhi mới truyền vào cũng biến thành một trong những tôn giáo phục vụ choviệc cúng kính và cầu nguyện” .Trong Hán Nguỵ Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều Phật Giáo Sử cũng cho rằng: “Phật Giáo Thời Nhà Hán được coi nư một tôn giáo chuyên về thờ cúng với học thuyết đặc thù quỷ thần và báo ứng.”, Trong Hậu Hán Thư có đoạn Nhượng Giai Thượng Thư nói: “Lại nghe trong cung có lập đền thờ Hoàng Lão Phù Đồ, đây là đạo thanh tịnh hư vô, quý trọng vô vi…”.

Lễ nghi cúng kính cầu nguyện thì không thể thiếu thắp hương để khấn vái cho nên từ rất sớm trong những bộ sách xưa có nói về tục thắp hương hành lễ của Phật Giáo. Trong Nguỵ Thư ThíchLão Chí có đoạn chép: “…Côn Tà Vương giết Hưu Đồ Vương…chiếm được tượngngười vàng (Đức Phật thời ấy được gọi là kim tiên) Vua Nhà Hán cho là vị Đại Thần đem thờ trong cung Cam Tuyền…đốt hương lễ bái…” trong sách Ngô Chí có đoạn chép về thời kỳ đầu Phật Giáo du nhập vào Việt Nam cũng chuyên về tín ngưỡng thờ cúng, thắp hương lễ bái: “…ở Giao Châu…khi ra đường người ta thương nghe tiếng kiển, lẫn tiếng trống kèn những người rợ Hồ ( chỉ các vị Tăng và Phật tử người Ấn) đi theo thắp hương hai bên có từng đoàn xe có mười người..”.

Văn hoá thắp hương cúng Phật đến với Phật Giáo Bắc Truyền sớm nhất trong tất cả các truyền thống văn hoá PhậtGiáo khác, khi đến với Phương Đông loại hình văn hoá này như được chắp thêm cánh vì nó hấp thụ hết thảy những kiến thức văn hoá khoa học về hương liệu của người phương Đông, và nó thăng hoa vì sự tinh tế trong triết lý sống cũng như hoà mình vào thiên nhiên của người Đông Độ, nó huyền ảo hơn trong nghệ thuật huyền học tiên khí của nền kiến thức Lão Nho.

Văn hoá dâng hương cúng Phật trong Phật Giáo Bắc Truyền được chia ra hai loại chính đó là Huân Hương và Phần Hương.

1- Huân Hương: dùng các loại hương phẩm nguyên gốc có mùi vị đặc trưng như hương cây cỏ, hương của trái cây, hương của tinh dầu, những loại này không cần thông qua một điều kiện nào như xông hay đốt để có mùi hương mà chính từ bản thân của loạihương đó tự nhiên toả hương, làm cho Phật Điện cũng như tượng Phật và nơi thờ Phật thoang thoảng mùi hương đó là loại thứ nhất gọi là Huân Hương cúng Phật.

2- Phần Hương: Còn goi là thắp hương, đốt hương, loại hương này được chế từ các loại cây cỏ có hương vịtổng hợp tạo thành, những thành phần trong hương dùng để đốt thường có Hương của cỏ, Hương của cây, Hương của hoa, Phấn hương, các loại bột trộn vào để trợ hoả khi đốt như Não hương, Cam thảo, Đinh hương và Nhục Quế.

Khi tạo các loại hương cao cấp người ta thường dùng Trầm hương hay Chiên Đàn hương, những loại bột hương này saukhi được phối trộn xong, người ta tạo thành các loại hương mà tuỳ theo khi sử dụng mà có hình dáng khác nhau. Thường thì nững thể loại hương được dùng trong các nghi lễ của Phật Giáo Bắc Truyền có ba loại: Nhang cây, nhang vòng và nhang có hình trụ và các loại Hương này khi dâng lên cúng dường Phật đều phải đốt thì mới có mùi hương, tất cả những thể loạihương này đều không còn thuần nguyên chất mà dều là hợp hương.

Thắp hương cúng Phật thường thì ta thắp một cây hoặc ba cây. Một cây hương tượng trưng cho ý nghĩa “Nhất thiết biến lễ sát trần Phật” là dùng một nén hương này dâng lên đãnh lễ cúng dường hết thảy mười phương chư Phật chư Đại Bồ Tát chư Hiền Thánh Tăng trong mười Phương.

Ba cây hương tượng trưng cho Giới Hương,Định Hương và Huệ Hương, nguyện đem hết thảy lòng thành kính tâm nguyệntu Giới, tu Định, tu Huệ của mình dâng lên cúng dường hết thảy Tam Bảo trong Mười Phương và nguyện cầu sự gia hộ của Tam Bảo làm cho chí tu họccủa mình luôn vững bền và một ngày không xa sẽ đến được Đạo Tràng của chư Phật.

Thắp hương cúng dường Phật luôn làm cho tâm ta định về một chổ, và rất dễ dàng để cho tâm của mình và chư Phật tương ưng, sự tương ưng này làm cho tam nghiệp của chúng ta hoàn toàn thanh tịnh mà đã thanh tịnh rồi thì trong giây phút đó chúng ta đến đượcđạo tràng của chư Phật chứng được Đạo Bồ Đề, trong Du Già Diệm Khẩu YếuTập có đoạn chép: “Thân thường thanh tịnh chứng Vô Thượng Đạo, Khẩu thường thanh tịnh chứng vô thượng đạo, Ý thường thanh tịnh chứng Vô Thượng Đạo.”.

Trong hầu hết các nghi thức trong lễ nghi của Phật Giáo Bắc Truyền như: tụng Kinh, ngồi Thiền, lễ tắm Phật, Đàn tràng Thuỷ lục, lễ khai quang, truyền giới, phóng sanh, cầu an, cầu siêu, chẩn tế..v.v.. hầu như không thể thiếu nghi thức nguyện hương, thắp hương cúng Phật và trong mỗi nghi thức dâng hương cúng Phật đều có tên gọi riêng biệt để phân loại Pháp Hội ý nghĩa. Khi tín đồ vô chùa thắp hương lễ Phật thì được gọi là “Khách Hương” đem hương vào chùa cúngdường để thắp hương cúng Phật được gọi là “Kính Hương” hoặc là “ Tấn Hương”.

Phật tử đem tiền cúng chùa dể mua hương cúng Phật gọi là “Hương Tư” Chùa nhiều Phật tử gọi là “Hương Hoả Đảnh Thạnh” Bài chư tăng đọc khi cúng hương gọi là “Hương Tán” bàn Phật gọi là “Hương Án” chư Tăng tại Phật tiền cúng hương gọi là “Nguyện Hương” hay là “Niệm Hương” những trai chủ phát tâm làm Pháp Hội khi dâng hương cúng Phật gọi là “Thượng Hương” đại diện cho người khác dâng hương gọi là “Đại Hương”.

thamhuong

Trai chủ thiết trai cúng dường chư tăng trước nên dâng hương nhiễu quanh đại chúng cúng dường hoặc thắp hương nhiễu tháp gọi là “Hành Hương” lễ Phật đạt tới Đại Thừa cảnh giới gọi là“Tâm Hương” cùng nhau Phát tâm tín phụng Phật Pháp, cùng nhau tu hành, tâm đầu ý hợp gọi là “Hương Hoả Nhân Duyên” người lo việc hương hoả trong chùa gọi là “Hương Đăng”.

Chưởng quảng về bộ phận hương đền gọi là“Hương Ty” Ngồi Thiền có đốt hương để làm thời gian biểu gọi là “Toạ Hương” Ngồi Thiền xong đứng lên đi nhiễu Phật gọi là “Bào Hương” Thiền bản dùng để cảnh sách chư tăng khi toạ thiền gọi là “Cảnh Sách Hương Bảng” dùng trong Giới Đàn gọi là “Thanh Quy Hương Bảng” Phật Điện cũng còn gọi là “ Hương Điện” nhà bết trong chùa gọi là “Hương Thụ” còn ngườitu hành khi phạm thanh quy bị phạt thì gọi là “Quỳ Hương”.

Dùng Hương cúng dường Phật là pháp môn cúng dường tối thắng nhất, đồng thời thể hiện hết tấm lòng cung kính đốivới Phật và tượng trưng cho phiền não đã được gội rữa, trong thân và tâm cảm thấy được an lạc, được như vậy mới đúng như ý nghĩa cúng dường Phật.trong các Kinh Đại Thừa hầu như luôn có những phần nói về cúng dường hương cho Phật.

Trong Kinh Đà La Ni Tập quyển 3 có chép về 21 loại cúng dường cho Phật trong đó có nói đến hương: “Hương Thuỷ, hương để đốt và các loại hương thơm, dùng những thứ hương đó dâng lên cúng Phật..” trong Kinh Tô Tất Địa có chép 5 loại cúng dường: “Bột hương, hương để đốt, hoa, đèn, ẩm thực”, trong “Hành Pháp Can Diệp Sao” chép: “sáu Pháp cúng dường tượng trưng cho sáu Ba La Mật…Hương thuỷ tượng trưng cho Giới Ba La Mật..”.

Thắp Hương cúng dường Phật làm cho chúngta khởi tâm cung kính chí thành đến với Tam Bảo, thâm tín Tam Bảo, có công năng làm cho ta có thể hoà nhập vào tâm từ bi và trí tuệ của Phật và Bồ Tát, lại khiến cho ta luôn phát tâm dõng mãnh tinh tấn trên con đường học theo ngôn hạnh của Phật và Bồ Tát. Đốt hương cúng Phật là tu Phước nếu như ta khi niệm hương với tâm chí thành không loạn “Tâm Hương Nhất Biện” thì tự nhiên sẽ cảm ứng được với Chư Phật, như vậy mới đạt đến cảnh giới của “Giải Thoát Tri Kiến Hương”.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2013(Xem: 6595)
Hôm nay, Tết Nguyên Đán năm Kỷ Tỵ, tấtcả quí Phật tử gần xa đều về chùa lễ Phật và chúc mừng năm mới. Nhân đây chúng tôi cũng nói chuyện và chúc Tết quí vị luôn. Năm Tỵ là năm con rắn, tôi cũng tùy tục mà nói chuyện đạo lý về con rắn.
04/02/2013(Xem: 10175)
Trước khi nhập điệt, 2500 năm trước, Đức Phật đã giảng pháp lần cuối. Bài pháp thoại này đã đưọc ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh -Maha Parinibbana Sutta -Great Passing Discourse) và đã được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh điển Pali, những thánh điển của Phật giáo. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng sanh bao giáo lý để đến được con đường giải thoát. Ở giai đoạn cuối đời, Đức Phật muốn nhấn mạnh với các đệ tử của Ngài là cần đem những lời giáo huấn đó áp dụng vào cuộc sống.
02/02/2013(Xem: 7598)
You may be surprised to hear that Most Venerable Thich Quang Do has made it known to President Obama and his Administration that Vietnam needs more than ever the service of VOA/ Vietnamese service. He is the supreme Buddhist Leader in Vietnam under House Arrest.
01/02/2013(Xem: 8310)
Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”. Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại. Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi. Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.
27/01/2013(Xem: 12247)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần Tài – Thổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
21/01/2013(Xem: 8372)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi sau này lại từ bỏ. Ngày nay, nhiều người rất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thường thì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vực tinh thần có những đặc tính như thế nào.
18/01/2013(Xem: 8395)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên họ khổ. Người giàu sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng hay hãm hại mình nên khổ. So ra, cái khổ của người giàu còn
18/01/2013(Xem: 8632)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan niệm về tính Không – một nội dung quan trọng của kinh Kim Cương. Tính Không (Sùnyatà) là một khái niệm khá trừu tượng: vừa thừa nhận có sự hiện hữu, sự “phồng lên” (ở hình thức bên ngoài) của một thực thể, vừa chỉ ra tính trống rỗng (ở bên trong) của thực thể. Vì vậy, tính Không không phải là khái niệm chỉ tình trạng rỗng, không có gì, mà có nghĩa mọi hiện hữu đều không có “tự ngã”, không có một thực thể cố định.
13/01/2013(Xem: 12353)
Sáu mươi và vẫn còn khỏe mạnh, tôi chỉ mới chập chững bước vào tuổi già. Nên giờ đúng là thời điểm tôi cần tham khảo về vấn đề này để phát triển sự can đảm, vì tuổi già là điều khó chấp nhận. Tuổi già thật đáng sợ. Tôi chưa bao giờ chuẩn bị cho tuổi già. Tôi vẫn hy vọng mình còn có thể sống qua nhiều lần sinh nhật nữa, nhưng lại không chuẩn bị cho sự hao mòn trong quá trình đó. Vừa qua tuổi sáu mươi không lâu, các khớp xương của tôi đã cứng, tóc tai biến mất ở chỗ này lại mọc ra chỗ khác, tên tuổi của người khác tôi không còn nhớ rõ, thì tôi phải chấp nhận những gì đang xảy ra cho tôi.
11/01/2013(Xem: 8556)
BA VÒNG QUAY CỦA BÁNH XE ĐẠO PHÁP cùng sự hình thành của kinh điển và các học phái Phật Giáo
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]