Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tài sản là phương tiện đưa đến hạnh phúc

05/05/201320:19(Xem: 6574)
Tài sản là phương tiện đưa đến hạnh phúc

money-6
TÀI SẢN LÀ PHƯƠNG TIỆN ĐƯA ĐẾN HẠNH PHÚC

Dr. Mehm Tin Mon (Saddhamma Jotikadhaja)
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

Tiến sĩ Mehm Tin Mon, Cố vấn Ban Tôn Giáo Miến Điện. Ông sanh tại làng Kamawet, thị trấn Mudon, bang Mon, Miến Điện, năm 1934. Cha mẹ ông đều là những Phật tử thuần thành, sống bắng nghề nông. Thuở nhỏ ông học rất giỏi, được nhiều giải thưởng xuất sắc trong các ngành Vật Lý, Hoá học, Toán.

Năm 1957, ông được học bổng nhà nước để sang Mỹ học tại đại học Illinois. Năm 1960 ông lấy bắng Tiến sĩ Khoa học tại đây.

Ông là giảng viên và khoa trưởng của Khoa Hoá học ở nhiều đại học tại Miến Điện. Năm 1992 ông nghỉ hưu. Trong thời gian còn làm việc, ông quản lý Hội Phật giáo của Khoa Y, Hội Phật giáo Khoa Giáo dục và Hội Phật giáo của Đại học Mawlamyine, Miến Điện.

Tiến sĩ Tin Mon đã viết hơn 30 đầu sách về giáo dục và Phật giáo. Ông du hành khắp nơi trong nước (Miến Điện) để thuyết pháp và dạy các khoá học ngắn, chuyên sâu về Vi Diệu Pháp.

usdollars_0Vị thế của con người trong xã hội thường được đánh giá qua những của cải vật chất mà người đó đã tích luỹ được trong đời. Trong thời xưa cũng như thời nay, con người thường có quan niệm rằng tích luỹ của cải vật chất là mục tiêu đầu tiên và cuối cùng của họ. Nhưng các triết gia như Aristotle đã cho rằng đó là một quan niệm rất hẹp hòi và sai lầm về đời sống của con người. Aristotle đã thiết lập một phương cách đo lường vật chất, qua đó tài sản được xếp hạng thấp nhất, so với các điều kiện của sức khỏe, tâm linh, và đạo đức. Quan điểm này cũng được thể hiện qua câu nói ta thường được nghe là: “Khi đánh mất tài sản, không có gì mất mát theo. Khi mất sức khỏe, chúng ta bị mất mát chút gì đó, và khi phẩm hạnh mất thì chúng ta mất tất cả”.

Của cải vật chất mang đến cho chúng ta những thứ cần thiết để giúp ta sống, và vì chúng ta phải còn sống mới có thể sống một cuộc đời tốt đẹp, hữu ích, nên chúng ta không thể thiếu một số lượng của cái vật chất nào đó. Tuy nhiên, vì sống tốt đẹp khác xa với chỉ được sống, nên của cải vật chất không thể tự nó làm cho đời sống của chúng ta đáng sống. Aristotle đã phân biệt giữa hai phương cách tích luỹ, tạo ra tài sản. Phương cách thứ nhất là kiếm vừa đủ tiền để duy trì một gia đình tươm tất với nguồn cung cấp vừa phải, để có một cuộc sống thoải mái, tiện nghi vừa đủ. Phương cách kiếm tiền thứ hai là để tích luỹ tài sản chỉ vì tiền.

Aristotle nhận thấy có nhiều người nghĩ rằng mục đích sống duy nhất của họ là để tích luỹ tiền của không giới hạn. Nguyên do khiến những người này có quan niệm như thế vì họ chỉ nghĩ đến việc sống, chứ không phải sống tốt đẹp, xứng đáng. Theo Aristotle, những người đó có thể thành công trong việc trở nên rất giàu có, nhưng họ có thể kết thúc cuộc đời mình mà không hiểu tại sao họ không được các vị hiền giả đánh giá là có một cuộc sống hạnh phúc, xứng đáng. Giống như Aristotle, Plato cũng quan niệm rằng người “bòn xẻn, chỉ mê đắm của cải vật chất” sẽ kết thúc trong khổ đau.

Theo Plato, “Muốn sống thật cao đẹp, đồng thời giàu sang tột độ”, là điều khó thể có. Điều này cũng được nói đến trong Thánh kinh, “Người giàu khó vào cửa thiên đàng, cũng giống như con lạc đà khó chui qua lỗ kim”. (Mathew 19.23-24) Nhưng chúng ta không nên dựa vào những nhận xét này để cho rằng của cải vật chất, tài sản hay việc sở hữu chúng là sai trái. Cái sai là khi ta coi việc tạo ra của cải là mục đích cuối cùng, duy nhất trong đời để quá bám víu vào tài sản của mình. Chúng ta phải coi tài sản và việc sở hữu tài sản chỉ là phương tiện đưa đến hạnh phúc, chứ không phải là cứu cánh trong đời. Nhiều vị thầy tâm linh đã khẳng định rằng việc sở hữu một tài sản khổng lồ thường dẫn đến việc mù quáng trước những vấn đề đạo đức. Họ không cho rằng tiền bạc là gốc rễ của mọi tội lỗi; nhưng họ nhấn mạnh rằng việc ta quá tham đắm với tiền bạc sẽ đưa ta đến sự huỷ hoại đạo lý. Quá bám víu vào sự thành công vật chất sẽ đưa đến thất bại trong tâm linh. Đức Phật đã giải thích rõ ràng rằng lòng tham đắm tiến bạc hay của cải là biểu hiện của lobha (tham, mong cầu, chấp chặt), là gốc của tất cả mọi khổ. Đức Phật cũng đề ra phương cách đối trị được biết đến là Bát Chánh Đạo để hoàn toàn huỷ diệt lobha phát khởi trong tâm như một pháp đồng sanh. Khi tham dục được hoàn toàn huỷ diệt, bứng gốc khỏi tâm, thì tính cao thượng tột bậc và sự an bình dài lâu sẽ được thiết lập ngay trong kiếp sống này.

Ái Dục

Bị ái dục, một loại lobha, chế ngự, nhiều người chạy đuổi theo dục lạc, vì họ coi đó là thứ đáng được hưởng thụ nhất trên đời. Ái dục phát khởi từ sự hưởng thụ khoái lạc của ngũ căn. Khi các căn trần như một chiếc đồng hồ vàng đẹp đẽ, một âm thanh dễ chịu, một mùi thơm, một vị ngon và một xúc chạm nhẹ nhàng, tiếp xúc với ngũ căn tương ưng là mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân, thì cảm giác dễ chịu cùng với niềm vui và sự bám víu khởi lên trong tâm. Cảm giác dễ chịu, niềm vui và sự bám víu cấu thành dục lạc. Do đó các căn trần như phụ nữ đẹp, âm nhạc, dầu thơm, đồ ăn, thức uống ngon, quần áo, trang sức hợp thời trang, là những nguồn cung cấp dục lạc cao độ, dễ trở thành các đối tượng rất được ưa chuộng. Thêm nữa, tiền bạc, tài sản, vị trí, quyền lực cao, cũng đem đến cho người ta nhiều dục lạc, nên cũng được săn đuổi ráo riết. Tuy nhiên, dục lạc không phải là thứ hạnh phúc dài lâu. Nó chỉ nhất thời, chóng qua, và người ta phải luôn nỗ lực để nắm giữ nó. Ngoài ra, ta cũng chóng chán với chỉ duy nhất một đối tượng giác quan (căn trần) và dục lạc mà nó mang đến. Vì thế người ta lại phải luôn đi tìm đối tượng mới. Do đó sự luôn ráng sức để tìm kiếm dục lạc thực sự khiến ta rất mỏi mệt và phiền não. Hơn nữa, dục lạc khơi lên ngọn lửa của tham, mong cầu, dục hay bám víu (lobha). Tựa như nhiên liệu làm bùng lên ngọn lửa, dục lạc cũng thổi bùng lên tham đắm. Nếu ta có thể tìm được khoái cảm trong muôn ngàn đối tượng, thì lòng tham đắm của ta còn được nhân lên thành hàng vạn lần hơn. Ta chấp chặt vào chúng và cứ muốn được hưởng thụ thêm lên. Theo Đức Phật, lòng tham cầu, ái dục hay bám víu (lobha), là ngọn lửa nóng nhất trên thế gian này. Sự chấp ngã, tình yêu lứa đôi, lòng tham đắm tiền tài, địa vị, dục lạc đều là biểu hiện của lobha. Vì sự tham đắm này mà con người luôn phải âu lo. Và cũng vì nó mà người ta phải khổ đau, thất vọng khi tình yêu, hay người ta yêu, hay tài sản ta trân quý bị mất đi. Người ta thường ca tụng tình yêu lứa đôi là tuyệt vời. Điều đó có thể đúng như khi Romeo và Juliet được ở bên nhau, nhưng cả hai đã chọn cái chết khi tình yêu của họ bị cản ngăn. Vì dục lạc thường gắn với ngọn lửa của dục vọng và lửa vô minh, nên nó thường không trọn vẹn và là khúc dạo đầu của khổ đau. Tham đắm trong dục lạc khiến ta đánh mất đạo lý và tự do luyến ái tạo ra những căn bệnh như AIDS, bệnh lậu và trẻ mồ côi, trẻ khuyết tật khắp nơi trên thế giới.

Diệu Liên Lý Thu Linh
(chuyển ngữ theo Wealth is a Means to Happiness, 2006)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2010(Xem: 8058)
Sống là làm cho mình càng ngày càng hoàn thiện hơn, theo đúng với sự tiến hóa của con người và thế giới. Tự hoàn thiện là tránh làm những cái xấu và trau dồi thêm những cái tốt. Trau dồi, bồi dưỡng, trồng trọt cũng là nghĩa chữ văn hóa (culture) trong tiếng phương Tây. Bất kỳ con người nào cũng muốn cuộc sống mình tiến bộ theo chiều hướng đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Không ai muốn điều ngược lại.
15/11/2010(Xem: 8836)
Nhiều thuật ngữ trong Đạo Pháp mang tính cách thật căn bản chẳng hạn như Giác ngộ hay sựQuán thấy sáng suốt(Bodhi),Vô thường(Anitya), sự Tương liêngiữamọi hiện tượng hay Lý duyên khởi(Pratityamutpada), v.v... Trong số này cómột thuật ngữ khá quan trọng là Khổ đau(Duhkha), tuy nhiên thuật ngữ này tươngđối ít được tìm hiểu cặn kẽ, có lẽ vì khổ đau là những gì quá hiển nhiên ai cũngbiết. Thật vậy tất cả chúng sinh đều gặp khó khăn nhiều hay ít không có một ngoạilệ nào cả.Lạm Bàn Về Khái Niệm « Khổ Đau » Trong Phật Giáo - Hoang Phong
14/11/2010(Xem: 7792)
Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự dạy rằng: “Cúng dường xong, Bồ-tát Hỷ Kiến xuất định và tự nói trong lòng: “ Tuy ta đã dùng thần lực cúng dường Phật, nhưng sao bằng lấy thân cúng dường”. Bồ-tát liền uống các chất thơm, kế uống dầu làm bằng các thứ hoa thơm mãn 1,200 năm, rồi lấy dầu thơm thoa thân, dùng áo báu cõi trời quấn mình trước đức Phật Tịnh Minh Đức, rưới các thứ dầu thơm lên áo và dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân. Ánh sáng tỏa soi 80 ức hằng sa thế giới.
09/11/2010(Xem: 8333)
KHAI THỊ Quyển 1 Hòa thượng Tuyên Hóa Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Trường Đại Học Pháp Giới Vạn Phật Thánh Thành Talmage, California
07/11/2010(Xem: 18707)
Theo hiểu biết cơ bản của Phật giáo, tâm hồn về bản chất luôn mang tính sáng suốt và thông tuệ. Thế nên, những rắc rối về tình cảm không hề tồn tại trong bản chất cơ bản của tâm hồn...
07/11/2010(Xem: 9849)
Tối nay, tôi muốn nói về sự thực tập Phật Pháp trong đời sống hằng này. Từ ngữ Phật Pháp - Giáo Pháp – Dharma có nghĩa là phương sách ngăn ngừa. Nó là điều gì đấy mà chúng ta thực hiện nhằm để tránh những rắc rối. Điều đầu tiên mà chúng ta cần phải làm để liên hệ chính chúng ta với sự thực hành Phật Pháp là để nhận ra rằng thực hành Phật Pháp là để hướng tới việc giúp chúng ta tránh khỏi những rắc rối này.
06/11/2010(Xem: 7088)
Chuyện cô nữ tu ngoại đạo Sundarī và kỹ nữ Ciñcā-māṇavikā có sắc đẹp tuyệt trần nhưng lại mang thân phận thấp hèn, hạ liệt; và cả hai đều bị chết thảm, người thì bị giết rồi cái thây bị chôn trong đống rác, người thì bị đất rút với quả báo địa ngục; hai sự kiện ấy đã dấy sinh trong lòng hoàng hậu Mallikā không biết bao nhiêu là câu hỏi, về nhân quả đời này, đời kia cũng như sự “bí mật” của nghiệp!
06/11/2010(Xem: 12638)
Ngày20 tháng tư nhuận năm Quí Mão(11/6/1963) trong một cuộc diễnhành của trên 800 vị Thượng Tọa, Ðại đức Tăng, Ni đểtranh đấu cho chính sách bình đẳng Tôn giáo, cho lá cờ quốctế không bị triệt hạ: tại ngã tư đường Phan Ðình Phùng,Lê Văn Duyệt ( Sài Gòn), lúc 9 giờ sáng, Hòa Thượng QuảngÐức phát nguyện tự tay châm lửa thiêu thân làm ngọn đuốc“ thức tỉnh” những ai manh tâm phá hoại Phật giáo. Dướiđây là tiếng nói tâm huyết cuối cùng của Ngài gửi lạicho đời.
06/11/2010(Xem: 8618)
Ngày nay, ở phương Tây, rất nhiều trung tâm dạy thiền, khí công, yoga… để chữa bệnh cũng chủ yếu là dạy cách thở bụng Nguyễn Khắc Viện là một bác sĩ, sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học đại học Y khoa Hà Nội rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ nhi khoa năm 1941. Năm 1942, ông bị lao phổi nặng, điều trị ở bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble. Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa như bây giờ. Từ năm 1943 đến năm 1948, ông phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám cái xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một phần ba lá phổi bên trái.
04/11/2010(Xem: 7609)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]