Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật tử Việt Nam đầu tiên

23/12/201204:20(Xem: 6610)
Phật tử Việt Nam đầu tiên
lotus_1APhật tử Việt Nam đầu tiên

PHẬT TỬ VIỆT NAM ĐẦU TIÊN

Nguyên Giác dịch ra tiếng Anh

Chử Đồng Tử là người Phật tử Việt Nam đầu tiên.

Ông sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Hưng Yên trong thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Một hôm, nhà cháy, chỉ còn chiếc khố hai cha con thay nhau mặc. Khi rời nhà, Chử Đồng Tử mặc khố và cha phải ở nhà, và ngược lại.

Trong giờ hấp hối, người cha dặn con phải giữ lấy khố để mặc. Thương cha, Chử Đồng Tử cãi lời, liệm khố chôn theo cha. Chử Đồng Tử câu cá ban đêm, ban ngày bơi theo thuyền buôn để đổi thực phẩm.

Vua Hùng Vương thứ ba có con gái tên là Tiên Dung, cô thích đi thuyền du lịch khắp nước. Một hôm, công chúa và đoàn hầu tới Hưng Yên. Thấy đoàn thuyền rồng tới, Chử Đồng Tử vùi mình vào cát ẩn thân.

Tiên Dung quây màn quanh một bờ lau để tắm, không ngờ gần Chử Đồng Tử. Cô xối nước tắm, làm lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Ngạc nhiên và mắc cỡ, Tiên Dung hỏi sự tình. Rồi suy nghĩ kỹ, công chúa xin kết hôn với Chử Đồng Tử.

Buồn bực và giận dữ, Vua Hùng Hương cấm công chúa về cung. Cặp vợ chồng mới dọn về Hà Thám, mở chợ, buôn bán hàng để mưu sinh. Dân địa phương kính thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung làm chúa, để tỏ lòng mang ơn hai người làm cho khu vực trở nên thịnh vượng.

Chử Đồng Tử và bạn thương buôn thường du hành để mua bán. Một hôm, nhìn thấy ngọn núi Quỳnh Tiên của huyền thoại, Chử lên núi, gặp vị sư tên Phật Quang (nghĩa: ánh sáng Đức Phật) tu ở một ngôi chùa. Sau khi nghe sư thuyết pháp, Chử Đồng Tử giao hết tiền cho bạn thương buôn để ở lại học Phật Pháp với nhà sư.

Khi bạn thương buôn quay thuyền lại đón, Chử Đồng Tử được Phật Quang tặng một cây gậy và một chiếc nón lá thần thông. Chử Đồng Tử về nhà, kể cho vợ về giáo pháp giải thoát. Hai người bỏ việc buôn bán, lên đường tìm thầy học đạo.

Một hôm, hai vợ chồng thấy mệt, nên ngừng nghỉ giữa đồng, cắm gậy úp nón lên trên.

Bỗng nửa đêm, thành quách, cung điện vàng hiện lên cùng với lính gác, người hầu.

Dân chúng trong vùng kinh ngạc, tới dâng hương và trái cây, xin làm thần dân của hai người. Nơi này trở nên phồn thịnh và độc lập như một nước riêng.

Vua Hùng Vương nghĩ là dân vùng này có ý tạo phản, nên ra lệnh cho lính tới dẹp. Khi lính nhà vua tới, dân chúng xin ra trận chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và nói mọi người hãy bình yên.

Trời tối, quân nhà vua đóng trại bên kia sông, ở bãi Tự Nhiên.

Đến nửa đêm, bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, lay động khắp vùng. Thành trì, cung điện, Tiên Dung, Chử Đồng Tử, lính gác và thần dân bay lên trời. Đất sụp xuống và trở thành một cái đầm lớn.

Cho đó là điều linh dị, nhân dân bèn lập miếu thờ hai người, gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm).

***

Truyện vừa kể trên là từ văn học truyền khẩu. Nhưng hiện nay đang có ít nhất bốn ngôi đền cổ ở tỉnh Hưng Yên, nơi dân chúng tôn thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Vào thế kỷ thứ 6, Tướng Triệu Quang Phục đưa binh đoàn trú đóng trong Đầm Dạ Trạch để mai phục quân Trung Quốc xâm lăng. Đó là cuộc chiến du kích đầu tiên tại Việt Nam. Bản doanh chiến khu này bây giờ là xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.

PHÁP THIỀN

Hãy tỉnh thức trong mọi thời;

hãy cảm thọ hơi thở vào và ra.

Hãy thấy rằng trong hít thở, chỉ có hơi thở chuyển động

và không hề có ai đang thở.

Hãy thấy rằng trong cảm thọ, chỉ có cảm thọ biến đổi

và không hề có ai cảm thọ.

GHI CHÚ: Băng hình này đã hiệu đính. Dịch giả trân trọng cảm ơn cư sĩ Nguyễn Đình Trung về góp ý chính xác rằng Chử Đồng Tử đúng là trong thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch.

Băng hình có thể xem ở đây:

http://youtu.be/qQ5Cv85c4To

THE FIRST VIETNAMESE BUDDHIST

Translated by Nguyen Giac

Chu Dong Tu was the first Vietnamese Buddhist.

He lived with his father, Chu Cu Van, in Hung Yen in the third century BC. One day, a fire burnt their house down and left only a loincloth for them to share. While going out of the house, Chu Dong Tu wore it and his father had to stay home, and vice versa.

When laying dying, his father told his son to inherit the loincloth. Loving his father, Chu Dong Tu disobeyed and buried it with his father’s body. Chu Dong Tu went fishing at night, and swam at day to merchant boats to exchange food.

The third Hung King had a princess named Tien Dung, who liked traveling by boats around the country. One day, she and her royal entourage came to Hung Yen. Seeing the royal boats coming, Chu Dong Tu got in hiding beneath the sand.

Tien Dung hung curtains around a reed bank, incidentally near Chu Dong Tu, and took shower. She poured water on her body, and his body was exposed when the sand slipped. Surprised and shy, Tien Dung asked about his situation. Then after thinking carefully, she asked him to marry her.

Sad and angry, Hung King banned her from entering the palace. The newlywed couple moved to Ha Tham, opened a market, and traded goods for a living. To show their gratitude for bringing them prosperity, the local people revered the couple as their royal rulers.

Chu Dong Tu and his fellow merchants frequently traveled for trade and business. One day, seeing the legendary Quynh Tien Mountain, he climbed up and met a monk named Phat Quang (meaning the Light of Buddha) at a temple. After listening a sermon from the monk, Chu Dong Tu left all the money to his fellow merchants, and stayed with the monk to learn Buddhism.

When his fellow merchants sailed back to pick him up, Chu Dong Tu was given by Phat Quang a magical staff and a magical cone hat. Chu Dong Tu came home, and told his wife about the way of liberation. The couple left their business, and traveled afar to seek a master who would teach them the Buddhist way.

One day, they felt tired and stopped to rest in a vacant field. They put the staff straight up and hung the cone hat over it.

At midnight, they saw a citadel appeared around and in which a gold palace with so many their new subjects and guardsmen.

Surprised, the villagers in the region came to offer fruits and incense, and asked Chu Dong Tu and Tien Dung to become their lords. The region turned prosperous and independent as a new kingdom.

Thinking that the regional people tried to incite an uprising, the Hung King ordered his soldiers to conquer the region. When the royal sodiers came near, the regional people showed the will to go to war. Tien Dung smiled and told everybody to remain at peace.

The sky turned dark. The royal soldiers had to camp across a river, at Tu Nhien Field.

At midnight, a storm with strong wind shook the whole region. Then the citadel, the gold palace, Tien Dung, Chu Dong Tu, the guardsmen and all regional people flied into the sky. The land below collapsed and became a large marsh.

Filled with awe, the villagers around built a shrine to worship the couple, and named the marsh as Nhat Da Trach Marsh (The Marsh That Was Created in Just One Night).

***

The story above is a folktale recorded from ancient oral history; however, there are currently at least four ancient shrines in Hung Yen Province where they worship Chu Dong Tu and Tien Dung. In the 6th century, the General Trieu Quang Phuc kept his soldiers hiding in the Nhat Da Trach Marsh to ambush the invading Chinese troops. That is the first guerrilla war in Vietnam. The guerrilla stronghold now is part of the Da Trach Commune, Khoai Chau County, Hung Yen Province.

MEDITATION

Be mindful all the time;

just feel the breaths in and out.

See that in breathing there is just the breaths moving

and there is no one who breathes.

See that in feeling there is just the variety of feelings

and there is no one who feels.

NOTE: This is the corrected version. The translator would like to say thanks to Mr. Nguyen Dinh Trung for his correct advice that the time of Chu Dong Tu should be in the third century BC.

The video can be watched here:

http://youtu.be/qQ5Cv85c4To


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8544)
aukhi D.T. Suzuki qua đời, hội Phật giáo Hoa kỳ góp nhặt các bài viết cuối cùng củaông để in thành sách với tựa đề "Lãnhvực của Thiền học Zen" (TheField of Zen, 1969) và bốn mươi năm sau quyển sách này được dịch sang tiếngPháp với tựa đề "Những bài viết cuốicùng bên bờ của cõi trống không" (DerniersÉcrits au bord du Vide, 2010). Dưới đây là một trong số các bài được tuyểnchọn trong quyển sách này.
31/10/2010(Xem: 9143)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
31/10/2010(Xem: 9939)
Bài nầy do Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển "Living Buddha, Living Christ" của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. Ðây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ "Buddha" được dịch là "Bụt", một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm "Buddha" khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ "Phật" hay "Phật Ðà" (tiếng Hán Việt) được dùng thay từ "Bụt". Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995
31/10/2010(Xem: 9765)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác? Trong bài viết ngắn này chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề "Không sát sanh" hay "tôn trọng sự sống" như là thái độ sống của một người Phật tử.
29/10/2010(Xem: 8222)
Linh hồn sẽ tồn tại sau khi chết có hay không ? Sau đây bài viết “Linh Hồn và Cõi Âm” của GS TS Bùi Duy Tâm (sống tại Francisco, CA 94122, USA). Từ chỗ chưa có cơ sở để tin cậy vào sự tồn tại vong linh của con nnep song daogười, GS Tâm đã kiên trì tìm hiểu vấn đề tâm linh và cuối cùng đã rút ra kết luận chắc chắn rằng : sự sống sau cái chết là có thực !
29/10/2010(Xem: 9173)
Có người cho rằng chữ niệm ở trong vô niệm cũng giống như chữ niệm ở trong chánh niệm. Không phải vậy!Chữ niệm ở trong vô niệm có nghĩa là một tư tưởng, một cái tưởng, một tri giác (perception), một ý niệm (idea), một quan niệm (notion). Vô niệm tức là vượt thoát những tư tưởng, những ý niệm, những tri giác đó. Tại vì mình có những tư tưởng, những ý niệm, những tri giác đó, và đôi khi mình đồng nhất nó với sự thật tuyệt đối. Vì vậy mình phải vượt thoát ý niệm đó thì mình mới có thể tiếp xúc được với sự thật.
28/10/2010(Xem: 8474)
Córất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sựphóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏitâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm, nênchúng ta vẫn coi chúng như những thể tách rời và khác biệt.Tâm chúng ta cứ hết sân hận, ganh tị rồi lại mừng vui,phấn khích - đủ mọi cung bậc thăng trầm của cảm xúc.Thực sự chúng ta chưa hiểu được mình đang trải nghiệmnhững gì, ta thực sự là ai, ai đang thực sự sân giận hayvui vẻ, ai đang nản lòng hoặc tràn trề hứng khởi: điềugì đang thực sự diễn ra? Trên thực tế
28/10/2010(Xem: 7854)
Kính lễ Kim Cương Thượng Sư Tôn! Đấng Pháp Vương Drukpa tôn quý, Ngài là chủ hết thảy Đạo sư, Mang phúc lợi nhiêu ích hữu tình. Dưới gót sen cao quý quang vinh, Dốc lòng thành con nguyện quy kính! Đức Long Thọ Bồ Tát dạy rằng: “Giới luật, giống như căn bản của thế và xuất thế, là nền tảng của hết thảy trí tuệ”.
28/10/2010(Xem: 8266)
Chủ nhật vừa qua tôi hết sức vui mừng vì đã thuyết bài Pháp đầu tiên tại Singapore. Ðương nhiên khi nhìn thấy số thính chúng nhiệt tình mộ đạo như vậy và khi trông thấy giảng đường chật kín, có số người còn đứng tràn ra ngoài, tôi vô cùng phấn khởi, sau đó tôi bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân nào đưa đến một số thính chúng tham dự đông đảo nồng nhiệt như vậy.
27/10/2010(Xem: 7141)
Cuộc đời là những mâu thuẫn, ở đây tôi không nói những gì cao siêu mà nói về những kinh nghiệm sống của người Phật tử. Chúng ta sống như thế nào để cuộc đời được an lành tự tại, không bị đau khổ làm ray rứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]