Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sáu Ba La Mật

02/12/201200:15(Xem: 4502)
Sáu Ba La Mật

SÁU BA LA MẬT
Nguyễn Thế Đăng

Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh để đi đến sự sáng tỏ hoàn toàn của tâm thức.

Một trong vài cuốn kinh lưu hành đầu tiên ở Việt Nam (Giao Chỉ) là do một người Việt là sư Khương Tăng Hội dịch. Kinh này có thể được dịch ở Đông Ngô, nhưng chắc chắn ngài có gởi về quê hương ngài để lưu hành. Bản kinh đó là Lục Độ Tập Kinh,nói về sáu độ, tức là sáu ba-la-mật. Từ khởi thủy Phật giáo Việt Nam đã bắt đầu bằng con đường Bồ-tát hạnh, để xuất hiện những triều đại Bồ-tát như Thiền sư Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn (đời Lý), Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông (đời Trần), và con đường ấy kéo dài cho đến ngày nay, mặc cho bao nhiêu thịnh suy của đất nước.

I. Từ ngọn đến gốc

Ba-la-mật đầu tiên là Bố thí. Bố thí thì rõ ràng là sự tích tập phước đức rồi. Ba-la-mật cuối cùng là Trí huệ (hay phiên âm từ tiếng Sanscrit là Bát-nhã). Cực bên này là phước đức do bố thí bởi lòng bi. Cực bên kia là trí huệ do thực hành trí huệ quán chiếu tánh Không. Bốn ba-la-mật giữa là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn và Thiền định đều có sự giao hòa giữa phước đức và trí huệ.

Khi đã tròn đủ sáu ba-la-mật, vị ấy có đầy đủ phước đức và trí huệ. Tâm của vị ấy là sự hợp nhất của trí huệ và đại bi.

Sự hoàn thiện phước đức và trí huệ của sáu ba-la-mật đều dựa vào luật nhân quả.

1. Bố thí ba-la-mật:Bố thí có vẻ là việc dễ làm nhất. Chưa có ai chưa từng cho hay biếu tặng người khác một cái gì. Ngay trong đời sống bình thường, bố thí là một bổn phận làm nên đời sống: cha mẹ bố thí cho con cái tiền lương, công sức, sức khỏe của mình. Cha mẹ bố thí cho con cái, và cũng nhận được từ con cái niềm vui, ý nghĩa làm cha mẹ. Trong kinh tế thị trường, sản xuất, buôn bán, trao đổi là cho và nhận. Nếu mọi người không muốn cho ai cái gì hết và nhận lại cái gì hết thì xã hội cũng không có. Trong bố thí, người ta nhận ra người khác, ai cũng muốn vui sướng và tránh khổ đau như mình. Đó là lòng từ bi.

Bố thí gồm tài thí, cho tiền và vật; vô úy thí, cho sự không sợ hãi, chẳng hạn ngăn không cho một con chó rượt một em bé. Và pháp thí, cho chánh pháp, mà dễ thấy là sự thuyết pháp.

Theo luật nhân quả, bố thí thì tâm thường hoan hỷ, không có khổ do sợ hãi thiếu thốn, sanh ở đâu cũng được giàu có, địa vị lớn, bạn bè giúp đỡ, quyến thuộc danh giá…

Bố thí là ba-la-mật đầu tiên. Ở trong hàng thánh thì bậc Sơ địa chủ yếu tu Bố thí ba-la-mật, còn Trí huệ Ba-la-mật được tu chủ yếu ở địa thứ sáu Hiện tiền địa. Nhưng bố thí không phải chỉ ở giai đoạn đầu của con đường Bồ-tát, sau đó được bỏ đi. Chẳng hạn bố thí pháp thì phải ở địa thứ chín, Thiện huệ địa, mới hoàn hảo. Bố thí có mặt trong các ba-la-mật khác. Chẳng hạn thiền định (ba-la-mật thứ năm) xong thì người ta hồi hướng, nghĩa là bố thí công đức ấy cho những người khác.

Bố thí có mặt khắp đầu và cuối con đường. Bố thí không chỉ là nguyên nhân mà còn là kết quả của giác ngộ. Vì bố thí là một biểu lộ của đại bi, mà mục đích của Bồ-tát là tròn đủ hai cái, trí huệ và đại bi.

2. Giữ giới ba-la-mật:Giữ giới làm cho thân tâm trong sạch bằng cách không phạm vào điều xấu ác (nhiếp luật nghi giới). Giữ giới là làm những điệu thiện (nhiếp thiện pháp giới). Giữ giới là làm lợi ích tốt đẹp cho những người khác (nhiêu ích hữu tình giới).

Do giới mà có thân thể tốt đẹp, tâm trí sáng suốt, được sanh vào nơi cao cấp.

Giữ giới như vậy là tạo ra một xã hội thiện lành an vui.

3. Nhẫn nhục ba-la-mật:Thực hành nhẫn thì được phước như có thân thể khỏe mạnh, không bệnh tật, không có người chống đối thù oán, được nhiều người giúp đỡ nghe theo, quyến thuộc lớn (vì nhẫn thì có nhiều người theo)…

Nhẫn là chịu đựng một cách bình an những điều không muốn nhận mà người khác bắt mình phải nhận. Nhưng nếu nhận như vậy mà cho lại lòng từ bi thì được phước của từ bi.

Phối hợp với trí, nhẫn sẽ dẫn đến giải thoát, tức là vô sanh pháp nhẫn.

Ba ba-la-mật đầu này có nhiều hàm lượng của phước, người xưa gọi là Tăng thượng sinh đạo, con đường của đời sống thịnh vượng trong ba cõi thế gian.

Ba ba-la-mật sau được gọi là Quyết định thắng đạo,con đường đi đến trí huệ, giải thoát.

4. Tinh tấn Ba-la-mật:Tinh tấn thông cả hai đầu phước đức và trí huệ. Người ta có thể tinh tấn trong việc làm lợi ích cho người như bố thí. Người ta cũng có thể tinh tấn trong việc quán chiếu của Trí huệ Bát-nhã, tức là thắp sáng ngọn đèn trí huệ.

Tinh tấn làm tăng thêm thích thú, hoan hỷ, an vui, vì tinh tấn trong điều thiện thì các điều xấu ác không còn nhiễu loạn phá hoại.

5. Thiền định Ba-la-mật:Thiền định làm tâm an ổn, tĩnh lặng. Trí huệ quán sát nương vào sự tĩnh lặng này mà hoạt động.

Thiền định làm cho thân thể khỏe mạnh, trong tâm thì những phiền não bị nép phục, do đó thân tâm được an vui (lợi mình), và tâm thanh tịnh an vui thì không muốn gây lo buồn, tổn hại cho người, trái lại, tâm đủ khỏe mạnh để làm lợi lạc cho người khác (lợi người).

6. Trí huệ (Bát-nhã) Ba-la-mật:Sự sử dụng trí huệ liên tục quán sát đưa chúng ta đến giải thoát. Giải thoát là cởi bỏ những ràng buộc tự mình trói lấy mình do chấp ngã và chấp pháp. Vì trí huệ quán sát khiến dần dần chúng ta thấy được các sự vật và chính ta đều do duyên sanh, nên chúng không tự hữu, không có tự tánh, và do đó là tánh Không.

Chính trí huệ soi thấy trực tiếp và triệt để tánh Không đưa đến giải thoát. Hơn nữa, giải thoát ngay khi đang bố thí, giữ giới, nhẫn nhục… nghĩa là không bị trói buộc vào việc bố thí hay làm điều thiện, vào đối tượng được bố thí, và vào phước đức của bố thí. Giải thoát ngay khi đang hành động là một đặc điểm của Trí huệ ba-la-mật.

Trí huệ này là nền tảng, là căn bản của đạo Phật. Vì bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tập trung, thậm chí đến mức khổ hạnh, những tôn giáo khác đều có. Sự khác biệt duy nhất giữa Phật giáo và các tôn giáo khác là mọi hành vi tôn giáo, kể cả cử hành khóa lễ, sám hối…, tất cả những hành động này được làm với trí huệ soi thấy tánh Không, được làm trong tánh Không.

Chúng ta cần thấy sự quan trọng đặc biệt của Trí huệ ba-la-mật. Chính trí huệ này làm cho năm hạnh kia thành “ba-la-mật”. Ba-la-mật nghĩa là “rốt ráo, giải thoát, đến bờ bên kia, hoàn toàn”. Chính tánh Không làm cho năm hạnh trước thành rốt ráo, giải thoát, hoàn toàn, nghĩa là thành năm ba-la-mật. Thế nên hệ thống kinh Bát-nhã, tuy luôn luôn nói đầy đủ cả sáu ba-la-mật, nhưng vẫn nhấn mạnh và nói nhiều nhất đến Trí huệ ba-la-mật. Vì thế, những bộ kinh đó có tên chung là Bát-nhã ba-la-mật, tức là Trí huệ ba-la-mật.

Kinh Kim Cương,thuộc về hệ thống kinh Bát-nhã, có nói: “Bồ-tát không trụ sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí… Nếu Bồ-tát không trụ tướng mà bố thí, thì phước đức ấy là không thể tính đếm đo lường”.

Nếu không trụ sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí thì người ấy trong khi bố thí đã ở trong tánh Không, mà tánh Không là phước đức vô lượng vô biên, không thể đo lường.

Từ đoạn kinh này chúng ta có thể thấy ra ba con đường. Trụ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí, đó là con đường của người đời, của đời sống thế gian, của phước đức hữu hạn vì thuộc thế gian.Không trụ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp nhưng cũng không tạo phước đức, không bố thí, đó là con đường của Thanh Văn, chỉ nhắm đến giải thoát. Không trụ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp nhưng vẫn bố thí, vẫn không bỏ phước đức bằng cách làm lợi lạc cho người khác, đó là con đường Bồ-tát. Đây là con đường hợp nhất phước và trí, con đường đưa phước đức hữu hạn thành phước đức vô hạn của tánh Không.

II. Từ gốc đến ngọn

Khi đã thực hành được quán chiếu Bát-nhã, nghĩa là quán chiếu tánh Không, thì Trí huệ ba-la-mật trở thành cội gốc, nền tảng của năm ba-la-mật trước, bởi vì tánh Không là Nền tảng, cũng là Con đường và Quả của thực hành Đại thừa.

Khi ấy bố thí, giữ giới, nhẫn nhục… đều nương dựa vào, y cứ vào, an trụ trong Trí huệ Bát-nhã:

“Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật an trụ trong Bố thí ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng sanh tâm tham tiếc vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật an trụ trong Giữ giới ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng dính mắc nơi có tội cùng không tội vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật an trụ trong Nhẫn nhục ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng sân hận vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát nhã ba-la-mật an trụ trong Tinh tấn ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, thân tâm luôn tinh tấn chẳng trễ nãi thôi nghỉ vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát nhã ba-la-mật an trụ trong Thiền định ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng loạn động chẳng say mê thiền vị vậy”. (Kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, phẩm Vãng sanh).

Nhờ y cứ trên thực hành Bát-nhã, an trụ trong tánh Không mà năm ba-la-mật trở thành vô lượng vô biên:

“Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát nhã ba-la-mật này làm vô đẳng đẳng bố thí, đầy đủ vô đẳng đẳng bố thí ba-la-mật, được vô đẳng đẳng thân và vô đẳng đẳng pháp. Đây chính là Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như Bố thí ba-la-mật, năm Ba-la-mật kia cũng như vậy.

Đức Thế Tôn cũng vốn đã thực hành Bát nhã ba-la-mật này mà đầy đủ sáu ba-la-mật, được vô đẳng đẳng pháp, được vô đẳng đẳng sắc thọ tưởng hành thức, thành Phật, chuyển vô đẳng đẳng pháp luân” (Phẩm Tán thán ba-la-mật).

Bát nhã ba-la-mật được ca ngợi vì Bát nhã ba-la-mật chính là tánh Không, tức là Nền tảng, Con đường và Quả. Ở đây chỉ xin trích ra một số câu trong phẩm Ca ngợi khắp trăm ba-la-mật:

“Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Vô biên ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì như hư không vô biên vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bình đẳng ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì các pháp bình đẳng vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Ly ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì rốt ráo rỗng không vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất hoại ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất khả thuyết ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì giác quán bất khả đắc vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất diệt ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì tất cả pháp bất sanh vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất động ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì pháp tánh thường trụ vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Tịch diệt ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì tướng của tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Vô phiền não ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì phân biệt nhớ tưởng là hư vọng vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Vô chúng sanh ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì chúng sanh vô sở hữu vậy”.

Từ cội gốc hay nền tảng Bát-nhã này, người tu Bồ-tát hạnh hoàn thiện năm ba-la-mật kia:

“Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm hành Bố thí ba-la-mật, đúng với tâm Nhất thiết trí mà bố thí cho Phật hoặc Độc giác Phật hoặc Thanh văn, hoặc cho người hay loài chẳng phải người. Đại Bồ-tát này lúc ấy chẳng sanh tưởng niệm bố thí, chẳng sanh tưởng niệm lãnh thọ. Tại sao thế? Vì quán tất cả pháp tự tướng Không, không sanh, không có tướng cố định, không có chỗ chuyển động, mà nhập vào thật tướng của các pháp. Đó là tướng vô tác vô khởi của tất cả các pháp.

Đại Bồ-tát ấy dùng sức phương tiện này làm cho thiện căn thêm lớn. Vì thiện căn thêm lớn mà hành Bố thí ba-la-mật, tịnh Phật quốc độ thành tựu chúng sanh, bố thí mà chẳng hưởng thọ quả báo thế gian. Đại Bồ-tát chỉ vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh mà hành Bố thí ba-la-mật” (Phẩm Trồng thiện căn).

Ba ba-la-mật đầu chủ về phước, ba ba-la-mật sau chủ về trí.

Nhờ sáu ba-la-mật nhiếp nhập lẫn nhau (phẩm Lục độ tương nhiếp) mà người ta đi trên con đường Bồ-tát đạo. Vì phước là cứu giúp chúng sanh nên Bồ-tát không trụ Niết-bàn; vì trí là soi thấy tánh Không của tất cả các pháp cho nên Bồ-tát không trụ trong sanh tử.

Con đường Bồ-tát không phải chỉ là sự giải thoát cho mình, mà còn lợi lạc cho người. Con đường Bồ-tát không phải là giải thoát khỏi tất cả pháp, mà là tự tại ở trong tất cả pháp:

“Đại Bồ-tát hành sáu ba-la-mật thì đầy đủ tất cả các thiện căn, sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Đại Bồ-tát phải quán sắc chẳng hợp chẳng tan, thọ tưởng hành thức chẳng hợp chẳng tan, cho đến Nhất thiết chủng trí chẳng hợp chẳng tan. Đại Bồ-tát phải suy nghĩ như vầy: Tôi chẳng nên trụ trong sắc thọ tưởng hành thức cho đến trụ trong Nhất thiết chủng trí. Vì sao thế? Vì sắc không chỗ trụ, vì thọ tưởng hành thức không chỗ trụ, cho đến Nhất thiết chủng trí cũng không chỗ trụ.

Đại Bồ-tát dùng pháp vô trụ tập hành sáu ba-la-mật thì sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

Đại Bồ-tát muốn tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh thì phải học Bát nhã ba-la-mật. Học Bát nhã ba-la-mật thì được tự tại ở trong tất cả các pháp” (Phẩm Đại phương tiện).

Kinh điển Phật giáo thường nói, đạo Phật là con đường tốt đẹp hoàn hảo ở chặng đầu, tốt đẹp hoàn hảo ở chặng giữa, và tốt đẹp hoàn hảo ở chặng cuối cùng. Tốt đẹp hoàn hảo ở chặng cuối cùng cũng như tốt đẹp hoàn hảo ở chặng đầu nghĩa là cái gì có ở chặng cuối cùng cũng phải có ở chặng đầu. Cái tốt đẹp hoàn hảo ở chặng cuối cùng cũng phải có ở chặng đầu, cái ấy là tánh Không. Tánh Không và sự quán chiếu tánh Không, tức là Bát nhã ba-la-mật, đã có ngay từ bước đầu tiên cho đến bước cuối cùng. Thế nên, con đường Bát nhã ba-la-mật là sự khai triển cho đến viên mãn cái đã có ngay từ bước đầu tiên vậy.

Văn hóa Phật giáo số 165
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 6695)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 11782)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 8575)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 50648)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 5336)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 6573)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 9814)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 5775)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 5606)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 7378)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567