Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp Đoàn Phật tử VN

01/10/201208:30(Xem: 6204)
Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp Đoàn Phật tử VN

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA GẶP GỠ VÀ THẢO LUẬN
VỚI ĐOÀN PHẬT TỬ VIỆT NAM
NGÀY THỨ NHÌ

Tịnh Thủy chuyển ngữ

Thekchen Choeling, Dharamsala, ngày 25 tháng 9 năm 2012 - Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma an tọa vào chỗ ngồi của Ngài, vị đại diện của đoàn Phât Tử đến từ Việt Nam đã dâng tặng Ngài một cây hoa thường được trồng trong các khuôn viên chùa ở Việt Nam. Ngài cảm ơn vị đại diện và bắt đầu cuộc nói chuyện,

2012_09_25_Vietnam_N03"Hôm qua, chủ đề chính của tôi là đạo đức thế gian và hôm nay tôi muốn nói một chút về Phật Pháp. Thông thường, khi tôi nói chuyện về Phật giáo, tôi muốn giải thích một cái gì đó về các tôn giáo khác trên thế giới để mọi người có thể đánh giá cao tính năng độc đáo của giáo lý đạo Phật. Các học giả lớn của trường Đại học cổ Ấn Độ University of Nalandanhư ngài Long Thọ, Thánh Thiên (Aryadeva), Phân Biệt Minh Bồ Tát (Bhavaviveka), Tịch Hộ (Shantarakshita), và ngài Kamalashila, đã so sánh quan điểm triết học Phật Giáo với quan điểm không phải triết học Phật giáo một cách rõ ràng. Tại Ấn Độ, những quan điểm của Phật Giáo thường không bị thách thức và cách mà các học giả bảo vệ quan điểm của Phật giáo là vô giá đối với chúng ta ngày hôm nay. "

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã so sánh các tranh luận về triết học của quá khứ, đến vai trò của khoa học ngày hôm nay. Ngài nhớ lại một người bạn Mỹ nhiều năm trước đây đã cảnh báo với Ngài là nên cẩn thận về ý tưởng nuôi dưỡng sở thích ngành khoa học, bởi vì cô cảm thấy rằng khoa học là một mối đe dọa với tôn giáo. Nhưng Ngài nghĩ rằng, "Không, khoa học là về kiến ​​thức, và mặc dù hai lĩnh vực hoạt động khác nhau, khoa học và Phật giáo đều đang tiến hành một cuộc điều tra về sự hiện thực (reality)". Cuộc đối thoại đã được tiến hành trong 30 năm hoặc lâu hơn giữa khoa học hiện đại và khoa học Phật giáo và cả hai bên cùng có lợi. Gần đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Ladakh, một nhà giáo ở địa phương nói với Ngài rằng bài diễn thuyết của Ngài về Phật giáo khác với những điều ông ta thường nghe. Một trong những yếu tố có thể là các Lạt ma truyền thống đã coi như đó là điều đương nhiên “take it for granted”[1] từ những người Phật tử nghe pháp, Đức Đạt Lai Lạt Ma thường thích làm theo những gì mà Ngài xem là thuộc truyền thống Nalanda khi dùng những quan điểm khác . Ngài cười khúc khích khi nhận xét như vậy,

"Tất nhiên, có những thách thức khác. Phương pháp tiếp cận của tôi chắc chắn không có tính cách phe phái, nhưng phái Shugden rất bè phái [2] và họ cáo buộc tôi bán cho truyền thống Gelug để làm hài lòng phái Nyingma [3]. Một trong những lý do tôi khuyến khích việc nghiên cứu các văn bản của các Tổ Sư Nalanda vì ở đó có mẫu số chung cho tất cả các truyền thống của chúng tôi. Trong khi đó, với việc nghiên cứu các văn bản của các bậc thầy Tây Tạng có một nguy cơ phát triển một sự thiên vị bè phái ".

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phác họa sự khác biệt giữa các truyền thống tâm linh không có nền triết học (thờ thần mặt trời, mặt trăng, lửa,..) với truyền thống tâm linh có nền triết học. Ở đây có thể được phân chia thành những người tin vào một đấng sáng tạo và những người không tin (vào đấng sáng tạo). Truyền thống tâm linh có nền triết học và tin tưởng vào một đấng sáng tạo bao gồm Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Hỏa Giáo (Zoroastrianism), đạo Sikh và Đạo giáo, trong khi các truyền thống tôn giáo không tin vào một đấng sáng tạo bao gồm một nhánh của Samkhyas, Kỳ Na giáo và Phật giáo. Trên thế giới có rất nhiều người khác nhau, sống ở những nơi khác nhau, môi trường khác nhau, và có những tâm tính khác nhau, do đó, cần có những truyền thống tâm linh khác nhau. Đối với một số người tin vào Thượng Đế là tuyệt vời, và với việc dâng hiến trọn vẹn lên Đức Chúa làm giảm bớt tính kiêu ngạo tự cho mình là trung tâm của vũ trụ. Người Phật Giáo giải quyết tự ngã của mình bằng cách phủ nhận sự tồn tại của một bản ngã, và phát triển lòng từ bi đến các chúng sinh khác.

2012_09_25_Vietnam_N02Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng trong số các giáo lý của Đức Phật, chúng ta thấy Ngài cũng trình bày nhiều quan điểm triết học khác nhau vào các dịp khác nhau. Điều này cũng dễ hiểu vì Đức Phật thừa nhận khuynh hướng khác nhau giữa các môn đệ của mình và dạy cho phù hợp (khế lý và khế cơ). Đức Đạt Lai Lạt Ma đề cập đến hai truyền thống chính của Phật giáo nổi lên ở Ấn Độ, truyền thống Pali và Sanskrit, bởi vì ngôn ngữ, trong đó kinh điển được viết để truyền bá. [4]

"Truyền thống Pali hàm chứa các cơ bản của giáo lý đạo Phật, trong khi truyền thống Sanskrit bộc lộ rõ hơn nữa về cái Tâm. Bản chất của tâm là biết, nhưng cũng giống như bạn không thể nhìn thấy khi mắt bạn đang bị che mờ, do đó, cho đến khi nào tâm còn bị vô minh [5] che lấp, khả năng của tâm còn bị che mờ. Một khi vô minh với những cảm xúc tiêu cực được loại trừ khỏi tâm, tâm trí trở nên sáng suốt, thấy biết tất cả”.

"Như đã ghi lại trong truyền thống Pali, Đức Phật được sinh ra trong một gia đình hoàng gia, nhưng Ngài đã từ bỏ đời sống thế gian, nghiêm túc tham gia vào việc tu khổ hạnh trong sáu năm. Sau đó, Ngài đã thiền định để chuyển hóa tâm vô minh đạt được giác ngộ viên mãn.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích rằng vô minh liên hệ đến những nhận thức sai lầm vốn tồn tại trong chúng ta, như là một kết quả do chúng ta phát triển sự dính mắc hoặc ác cảm với nó. Chúng ta có một cái nhìn méo mó về thực tại, nhưng khi điều tra và tìm kiếm một cái gì đó vốn tồn tại, chúng ta không thể tìm thấy nó. Tà kiến ​​liên kết chặt chẽ với những cảm xúc tiêu cực làm cho chúng ta gặp khó khăn; chính kiến, trong đó bao gồm việc loại trừ vô minh và là vấn đề của sự hiểu biết thực tại một cách chính xác hơn. Trong khi công việc của một giáo viên là giải thích, và các học sinh có nhiệm vụ phải khai triển về một sự hiểu biết về thực tại.

Đề cập đến ba môn học cấp cao (Tam Học), Giới, Định và Tuệ, là pháp cơ bản cho tất cả các pháp thực hành trong Phật giáo, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng giới luật hay là luật tắc của tu viện về cơ bản là giống nhau trong cả hai truyền thống Pali và Sanskrit. Ngài nói về một cuộc họp mặt với hai nhà sư Miến Điện tại Quốc hội Tôn Giáo Thế Giớiở Úc, họ đã đồng ý rằng Ngài và họ theo cùng một Đức Bổn Sư, nhưng gợi ý rằng có sự khác biệt giữa họ. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với họ rằng người Tây Tạng cũng tuân theo Luật tạng theo truyền thống Hữu BộLuật của Da-du-la Nhất Thiết Hữu bộ (Mula-sarvastivada), họ rất ngạc nhiên và hài lòng. Nhắc lại Tam Học là như nhau trong cả hai truyền thống Pali và Sanskrit, Ngài nói rõ rằng việc thực hành Tuệ, trong truyền thống Sanskrit liên quan đến việc sử dụng lý luận. Giải thích việc chấm dứt khổ đau, sự thật thứ ba trong bốn sự thật cao quý, có nghĩa là những gì được tìm thấy trong sự toàn thiện của Kinh Bát Nhã (Prajnaparamita or Perfection of Wisdom sutras) trong truyền thống Sanskrit. Những kinh điển này triệt để giải thích về Tánh Không (sự trống không của tâm) [6], bản chất của sự chấm dứt và làm thế nào để đạt được nó.

Kỷ luật của sự giải thoát cá nhân là nền tảng của truyền thống Pali. Nó cũng là cơ bản của truyền thống Sanskrit, nhưng (truyền thống Sanskrit) có thêm một mối quan tâm đến phúc lợi của người khác thể hiện như tâm thức tỉnh của bồ đề tâm với nguyện vọng vị tha đến giác ngộ. Thêm vào đó là truyền thống Kim Cang Thừa mà các khách của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết Kim Cang Thừa cũng được thực hành tại Việt Nam. Đức Đạt Lai Lạt Ma trước đó đã giải thích rằng, có những thách thức xem Đại Thừa, giáo lý của truyền thống Sanskrit, là những lời dạy của Đức Phật và cho rằng những vị Tổ Sư như Ngài Long Thọ đã thành lập và bảo vệ. Những câu hỏi lịch sử cũng đã được hỏi về việc liệu Kim Cang Thừa có được dạy bởi Đức Phật?. Vị Đại Sư vĩ đại của Ấn Độ như Long Thọ, Thánh Thiên và Chandrakirti đã viết rất nhiều về Kim Cang Thừa và bậc thầy vĩ đại, Ngài A Đề Sa (Atisha) đến Tây Tạng trong thế kỷ 11 truyền dạy và thực hành Kim Cang Thừa.

"Vì vậy," Ngài kết luận, "Phật giáo Tây Tạng là mô hình đầy đủ nhất của Phật giáo bởi vì nó có giới luật của truyền thống Pali làm cơ bản, thêm vào đó là giáo lý Bát Nhã và Luận Lý Phật giáo của truyền thống Sanskrit, cũng như việc thực hành Kim Cang Thừa tantra. "

2012_09_25_Vietnam_N01Trước khi thực hiện một lễ quy y đơn giản (cho đoàn Phật Tử Việt Nam) mà Ngài đã đồng ý, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích,

"Cấu trúc cơ bản của Phật Pháp là bốn chân lý cao quý. Theo luật nhân quả, nghiệp tích cực đưa đến hạnh phúc và nghiệp tiêu cực phát sinh đau khổ. Thập Nhị Nhân Duyên minh họa điều này và các bạn có thể nhìn thấy chúng được miêu tả trong hình ảnh của bánh xe luân hồi tại lối vào ngôi chùa. Vô Minh đưa đến nghiệp, để lại một dấu ấn vào tâm trí hay trong tầng sâu thẳm của ý thức (consciousness). Các mối dây tiếp theo đến mối dây cuối cùng là lão hóa và tử vong. Nếu chúng ta không muốn đau khổ, chúng ta phải phá vỡ chuỗi nghiệp lực, mà chúng ta làm bằng cách loại trừ vô minh. Chúng ta cần phải hiểu là bằng cách loại trừ vô minh trong tâm trí của chúng ta, chúng ta sẽ vượt thoát khổ đau. Khi chúng ta đã loại bỏ được vô minh là chúng ta thật sự chấm dứt khổ đau.

"Chúng ta quy y Phật, Pháp và Tăng bởi vì chúng giúp chúng ta thanh lọc những ô nhiễm của tâm chúng ta. Quy y Tam Bảo là lối vào Phật giáo. Khi chúng ta thực hiện điều này, cùng với tâm thức tỉnh của bồ đề tâm, chúng ta không chỉ tìm kiếm sự giải thoát của chính chúng ta, mà còn giải thoát cho chúng sinh khác. Và để có sự giúp đỡ lớn nhất đối với họ, chúng ta cần một tâm toàn giác. "

Sau đó, Ngài chủ lễ một buổi lễ Quy Y đơn giản (nương tựa vào Phật Pháp và Tăng) và khao khát để đạt được giác ngộ. Cuối cùng, Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết Ngài thực hành cầu nguyện mỗi ngày và tìm thấy những điều rất hữu ích, tâm sự rằng Ngài chỉ bắt đầu thích thú thực hành ở tuổi 14, 15. Ngài khuyên rằng trong khi có những khía cạnh vật lý của thực tế và có những điều chúng ta nói, điều quan trọng nhất là thực hành ở mức độ tâm.

"Hãy đọc hai câu thơ này hàng ngày – quy y (nương tựa) và bồ đề tâm - và suy nghĩ về ý nghĩa của chúng. Nếu bạn có thể, giúp đỡ những người khác, và nếu bạn có thể ít nhất là không làm hại họ. Và khi bạn cảm thấy bạn đang giận dữ, cắn khớp ngón tay của bạn! "

Kết thúc buổi nói chuyện, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng Ngài cho rằng trong cuộc đời này, Ngài có ba cam kết: đầu tiên là thúc đẩy các giá trị con người bằng cách nói chuyện về đạo đức thế gian, thứ hai là thúc đẩy sự hiểu biết và hòa hợp giữa các tôn giáo, và thứ ba, kể từ khi Ngài đã chuyển giao trách nhiệm chính trị của mình cho nhân dân Tây Tạng để họ bầu người lãnh đạo, là để khuyến khích các môn đệ của Đức Phật để trở thành Phật tử thế kỷ 21. Ngài nói rằng Ngài hy vọng bạn bè của mình cũng sẽ cảm thấy tự nhiên có khuynh hướng làm theo ba điều cam kết của Ngài.

Tịnh Thủy biên dịch

(theo dalailama.com)

Chú Thích của người biên dịch:

[1] Trong tiếng Anh có thành ngữ “take someone (or something) for granted” rất hay, mà tiếng Việt không có câu nào dịch ra chính xác. “take it for granted” tạm cưỡng dịch là “coi như đó là điều đương nhiên”, chỉ một thái độ không biết quý trọng, không biết ơn.

[2] Việc nghiên cứu về lịch sử tiết lộ rằng thực hành Shugden là thực hành có tính chất bộ phái mạnh mẽ, đã có một quá trình lịch sử trong việc góp phần vào xu thế bất hòa, chia rẽ trong nhiều bộ phận của Tây Tạng, và giữa những cộng đồng Tây Tạng với nhau. Vì thế, từ năm 1975 cho tới nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thường xuyên công khai bày tỏ quan điểm của ngài là mọi người không nên theo đuổi thực hành này..( /D_1-2_2-81_4-6752_5-50_6-4_17-340_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark)

[3] Hiện nay, Phật giáo Tây Tạng có bốn tông phái chính là Gelug (Cách-lỗ), Sakya (Tát-ca, Thích-ca, Tát-già), Kagyu (Ca-nhĩ-cư) và Nyingma (Ninh-mã) đang hoạt động mạnh tại Tây Tạng và các nước khác trên thế giới: (1)Trường phái Ninh mãcòn gọi là phái Mũ Đỏ là do đại sư Tịch Hộ thành lập. Đây là một trường phái Phật giáo lâu đời nhất của Tây Tạng và đã tiếp nhận năm điều của tín ngưỡng Bôn và cảm hóa đạo Bôn thành Phật giáo. Chủ trương của phái Mũ Đỏ là Mật tông pha lẫn Thiền tông của Trung Quốc. (2) Trường phái Ca nhĩ cưcòn gọi là phái Mũ Trắng do ngài Marpa (1012-1099) và đệ tử của ngài là Gampopa còn gọi là Dagpo Lhaje (1084-1161) thành lập. Tông phái này chú trọng về thiền định gọi là “Đại Pháp Ấn” (Mahamudra) và “khẩu truyền” từ thầy đến trò. Gyalwa Karmapa, Ogyen Trinley Dorje (sanh năm 1985) là vị Lạt Ma thứ 17 của tông phái này, (3) Trường phái Tát ca, còn gọi là phái Mũ Xám. Ngawang Kunga Theckchen Rimpoche (sanh năm 1945) hiện là Lạt ma cao nhất của phái này. (4) Trường phái Cách lỗ(Gelugpa): là trường phái Mũ Vàng do nhà cải cách Phật giáo, ngài Rinpoche Je Tsongkhapa (1357-1419) thành lập. Gelug cũng có nghĩa là giới luật nên tông phái này nhấn mạnh về quy củ giới điều. Phái Mũ Vàng đã có nhiều cống hiến lớn cho Phật giáo đặc biệt phái đã thành lập được truyền thống tái sanh nổi tiếng của các Đức Đạt Lai Lạt Ma.

[4] Đức Đạt Lai Lạt Ma thường dùng cụm từ Truyền Thống Pali và Truyền Thống Sanskrit. Truyền thống Pali thường được mọi người biết đến là Phật Giáo Nguyên Thủy vì dùng các văn bản bằng tiếng Pali. Truyền thống Sanskrit thường được biết đến là Phật Giáo Đại Thừa vì các văn bản sử dụng tiếng Sanskrit (Phạn ngữ). Đối với Kim Cang Thừa (Tantra), các văn bản lúc đầu dùng tiếng Sanskrit, nhưng ngày nay là tiếng Tây Tạng. Hiện nay nhiều Phật tử cố gắng không dùng cụm từ Phật Giáo Đại Thừa và Phật Giáo Tiểu Thừa mà gọi là Phật Giáo Theravada thay cho Phật Giáo Nguyên Thủy / Tiểu Thừa và Phật Giáo Bắc Truyền thay cho Phật Giáo Đại Thừa.

[5] Từ “vô minh”nói chung thì tiếng Sanskrit gọi là Avidya, tiếng Anh dịch là “ignorance” nghĩa của chữ này là “thiếu hiểu biết”. “Thiếu hiểu biết" ở đây không có nghĩa là thiếu sự hiểu biết mang lại từ sự học hỏi từ chương trong sách vở, hay sự thiếu hiểu biết mang tính cách thông thái của một nhà bác học mà là sự hiểu biết dựa vào những cảm nhận của giác quan, vào các quy ước và công thức. Nói một cách đơn giản thì ta có thể hiểu vô minh như là một cách "nhìn sai", “nhìn lầm lẫn”, hay "hiểu sai".

[6] Tánh Không tiếng Sanskrit gọi là Sunyata, chỉ định đặc tính hay bản chất trống không của mọi hiện tượng. Sunyata diễn đạt bằng tiếng Anh là Emptiness . Tánh Không không phải là không có cái gì cả, mà tánh Không là vì duyên sanh khởi. Tổ Long Thọ đã nói: Duyên Khởi chính là Tánh Không, bởi vì Tánh Không chẳng phải là nói sự vật không có hiện hữu, mà nói rằng chính vì sự vật hiện hữu tùy thuộc vào những nhân duyên điều kiện, nghĩa là tùy thuộc vào các thứ ngoài nó mà sinh ra, cho nên không thể hiện hữu độc lập, không tồn tại thực sự và không có tự tánh. Hiểu Tánh Không tức là hiểu Duyên Khởi, là tùy duyên mà sinh ra.

Xem bài trước Ngày Thứ Nhất: ● ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA GẶP GỠ VÀ THẢO LUẬN VỚI ĐOÀN PHẬT TỬ VIỆT NAM -Ngày Thứ Nhất

 


(CÙNG TÁC GỈA / DỊCH GIẢ)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/04/2019(Xem: 6779)
TẬP TRUNG TÂM THỨC Nguyên bản: Focusing the Mind Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển/Friday, March 22, 2019
23/04/2019(Xem: 9651)
Khóa Tu Học nhân Mùa Phục Sinhà019 tại Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, từ ngày 19-22.4.2019.
23/04/2019(Xem: 6376)
Cảnh Giác Với Bạo Lực Tôn Giáo, Vào ngày 21/4/2019 hãng Reuters loan tin, “Hơn 290 người chết và tối thiểu 500 bị thương trong bảy cuộc đánh bom liên tiếp vào ba nhà thờ Thiên Chúa Giáo và bốn khách sạng sang trọng tại miền đông Tích Lan (Sri Lanka) vào ngày hôm nay do nhóm cực đoan Quốc Gia Thowfeek Jamaath thực hiện và đây là cuộc tấn công đầu tiên lớn nhất vào hòn đảo ở Ấn Độ Dương kể từ khi cuộc nội chiến chấm dứt cách đây mười năm. Bảy người đã bị bắt vài giờ ngay sau những cuộc đánh bom
18/04/2019(Xem: 6415)
NGƯỠNG MỘ GIÁC NGỘ Nguyên bản: Aspiring to Enlightenment Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
10/04/2019(Xem: 7194)
Một ngày như mọi ngày, không có gì thay đổi, giống hệt như ngày hôm qua, không có gì vui, không có gì mới, là nỗi kinh hoàng của con người. Căn bệnh buồn nản, chán đời (depressed) mà trong nước gọi là trầm cảm đã được ông nhạc sĩ Trịnh Công Sơn khóc than trong bản nhạc “Một ngày như mọi ngày” như sau:
10/04/2019(Xem: 6515)
Ban sơ, Phật giáo là một phong trào cải cách chống lại uy quyền Vệ-đà, nghi lễ Bà-la-môn và hệ thống giai cấp đầy bất công cuả xã hội Ấn độ . Thời Đức Phật, khuynh hường nầy phát triển rộng khắp dưới sự lãnh đaọ của Đức Phật, đạo Phật được số đông dân chúng và gai cấp thống trị ủng hộ. Tuy nhiên, vào thế kỷ thứ 9 DL, Ấn giáo tung đòn phản công: tư tưởng đạo Phật được cố ý đem vào Ấn giáo và Đức Phật lịch sử được tuyên bố là một Hóa thân của thần Vệ Nữu. Những gì trước đây là điểm hấp dẫn của Phật giáo nay cũng được tìm thấy trong Ấn giáo.
09/04/2019(Xem: 5621)
Con Cháu Hiếu Ông Bà Vui Tươi Lắm Hãy Giành Nhau Phụng Dưỡng Phước Đức Nhiều Chính Người Già Là Ruộng Phước Phì Nhiêu Sau Tam Bảo, Cùng Neo Đơn Khốn Khó…(2)
09/04/2019(Xem: 6744)
MỞ RỘNG GIÚP ĐỞ Nguyên bản: Extending Help Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / Monday, February 25, 2019
07/04/2019(Xem: 8716)
Nó bị người ta tra tấn hành hạ rất dã man, quá đói mà không có gì ăn phải ăn cả vỏ bánh kẹo của du khách, bây giờ nó đã được giải thoát và sống cuộc sống vui vẻ, tự do. Trong suốt 50 năm, chú voi Raju sống một kiếp sống nô lệ. Không ai biết cuộc đời trước kia của nó là như thế nào, chỉ biết rằng nó đã bị bắt cóc khỏi mẹ và tách khỏi bầy từ khi còn rất nhỏ, rồi được bán đi bán lại qua tay của 27 người chủ khác nhau như một món hàng hóa, để rồi cuối cùng chôn vùi cuộc đời mình tại một sở thú ở bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.
04/04/2019(Xem: 7805)
Chuẩn bị lên đường, bạn dặn tôi đến nơi nhớ điện thư cho biết năm nay (2018) Bồ Đề Đạo Tràng có gì lạ. Tôi đáp ngay: vâng, sẽ cố gắng. Nhưng xin hiểu giùm. Nếu ai đó trong ba năm qua, năm nào cũng đến đấy thì khó thấy chuyện lạ. Chuyện gì cũng quen. Từ con đường đi có chỗ ổ gà phải tránh, cổng vào chùa khép đến chỗ nào thì nghe tiếng kêu két két, anh bán hàng góc chùa Tây Tạng lúc nào cũng cười tươi. Kể cả bà già ăn xin cũng là người cũ, ngồi ủ rũ y nguyên chỗ cũ. Chuyện gì cũng thấy như năm ngoái mình đã thấy. Nhưng, nói vậy mà việc ấy cũng có cái hay của nó: tự nhiên sao mình có cảm giác thật thân quen, như đi xa về lại thăm nhà. Thành ra muốn vừa lòng bạn nhưng không lẽ lặp lại chuyện đã từng kể cho bạn nghe những năm rồi. Rồi bỗng … quên luôn!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]