Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ai là những người nổi tiếng

26/03/201707:21(Xem: 4619)
Ai là những người nổi tiếng


lotus_4


AI LÀ NHỮNG NGƯỜI NỔI TIẾNG?

 

Hôm nay chúng ta sẽ học về những tấm gương sáng đã đóng góp cho nhân loại của một thời đã qua. Đã làm người dù ít hay nhiều ai cũng đã từng có một quá khứ tốt và xấu.

 

Lịch sử nhân loại lúc nào cũng có hai mặt tương phản nhau giữa tốt và xấu, là trường đời luôn phải đấu tranh và xây dựng để không ngừng tiến bộ. Tuy nhiên trong cuộc sinh tồn có kẻ được người mất, có kẻ thắng người thua, nên hư hay thành bại đều do con người tạo lấy; mình làm lành được hưởng phước mình làm ác chịu khổ đau. Quy luật sinh tồn luôn phải đánh đổi để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Chuyện xưa kể rằng, tại một trường trung học ở Mỹ, có một lớp học nọ với 26 em học sinh cá biệt có nhiều khiếm khuyết và lỗi lầm. Đây là một lớp học đặc biệt dành riêng cho các em học sinh có tiểu sử không được tốt đẹp? Có em đã từng hút chích xì ke ma túy, có em từng vào trại cải tạo nhiều lần, thậm chí có một học sinh nữ đã từng phá thai tới 3 lần trong một năm.

Gia đình của các đứa trẻ đó đều chán nản và đã không chấp nhận chúng, thế cho nên mọi người trong gia đình người thân đều xa lánh chúng. Tưởng chừng cuộc sống của họ như đã hết hy vọng thì một ngày kia, cô giáo Phila mới về trường đã tình nguyện làm chủ nhiệm lớp của những đứa trẻ hư hỏng này.

Bắt đầu một ngày mới, cô giáo Phila chính thức lên bục giảng với dóc dáng thon gọn, mặc một chiếc đầm lụa màu xanh lá cây, mái tóc màu nâu cắt ngắn hình búp bê làm tăng thêm vẻ đẹp kiều diễm và trong sáng. Bọn trẻ đang nhìn cô với một thái độ khác thường giống như các thầy cô giáo khác, tuy nhiên cô giáo Phila đã thể hiện cung cách của một người tràn đầy tình thương… Sau khi giới thiệu về mình xong, cô dịu dàng nhìn lướt qua từng khuôn mặt của bọn trẻ một lượt rồi nói như sau:

Hôm nay cô sẽ kể cho các em nghe về quá khứ của 3 người đàn ông đã từng nổi tiếng một thời đã qua và có những quá khứ đau buồn:

-Người thứ nhất đã từng có những vụ bê bối về chính trị, rất mê tín vào y thuật của thầy cúng, ông ta từng có tới 2 tình nhân, hút thuốc nhiều hơn những người khác và mỗi ngày uống từ 8 đến10 ly rượu mạnh.

-Người thứ hai đã bị đuổi việc đến 2 lần do tính cẩu thả và lười biếng, ông ta có thói quen ngủ tới trưa mới dậy và tối nào cũng uống 1 lít rượu brandy. Và đã từng hút thuốc phiện khi còn là sinh viên học sinh…

-Người thứ ba là vị anh hùng nổi tiếng trong thời kỳ chiến tranh của thế giới. Ông ta ăn chay trường, không bao giờ hút thuốc lá và thỉnh thoảng mới uống rượu, tuy có uống bia nhưng không nhiều. Thời thanh niên ông ta sống rất gương mẫu và đạo đức, không tình ái lăng nhăng rất nghiêm khắc với bản thân.

Sau khi kể xong cô hỏi cả lớp, trong 3 người, ai sau này sẽ có nhiều cống hiến lớn lao nhất cho nhân loại?

Khỏi cần phải suy xét hay bàn cãi gì cả, cả lớp đều lên tiếng chọn người thứ ba, nhưng cô giáo Phila trả lời rằng các em đã đoán sai hết rồi, làm cho lũ trẻ ngạc nhiên đến lạ thường.

Im lặng một hồi lâu để đánh tan mọi nghi ngờ, cô giáo nói trong nhẹ nhàng như có gì sâu lắng: Cô biết chắc là các em sẽ chọn người thứ 3! Vì sao? Vì ông ta hơn hẳn hai người kia về mọi mặt nhưng sự thật lại không như vậy… Ba người này đều là những người nổi tiếng nhất trong thế chiến thứ 2.

 

-Người thứ nhất là Franklin Roosevelt, tuy bị bệnh bại liệt từ thắt lưng trở xuống, nhưng nhờ ý chí kiên cường và mạnh mẽ với sự luyện tập không ngừng nghỉ, cuối cùng ông đã chiến thắng cơn bệnh hiểm nghèo này. Ông ta đã từng thành công và nổi tiếng vượt ngoài tiêu chuẩn cho phép, ông làm Tổng thống Mỹ trong bốn nhiệm kỳ liên tiếp.

 

-Người thứ hai là Winston Churchill, Ông là Thủ tướng Anh duy nhất nhận giải Nobel Văn học và là người đầu tiên được công nhận là công dân danh dự Hoa Kỳ. Ông là vị Thủ tướng nổi tiếng và tài ba nhất trong lịch sử nước Anh.

 

-Còn người thứ ba là Adolf Hitler, con ác quỷ đội lớp người, là tiền thân của phát xít Đức. Khi ông ta nắm quyền đã giết hại trên hàng chục triệu người dân vô tội.


Khi nghe đến đây, cả lớp đều đồng thanh ồ lên một tiếng vì sự thật quá phũ phàng, không đúng như dự đoán của chúng. Cả lũ như ngây người ra và dường như không thể tin nổi vào những gì chúng vừa nghe thấy.

 

Cô giáo nói đây là câu chuyện có thật trong lịch sử nhân loại, những điều mà cô vừa kể cho các em nghe là quá khứ của họ, quá khứ thì có tốt và xấu. Còn sự nghiệp hiện tại của họ sau này mới là điều chúng ta cần quan tâm, đó là sự cống hiến và dấn thân nhiều cho nhân loại.

 

Này các em, cuộc sống của chúng ta ngày hôm nay được bắt đầu bằng một ngày mới có ý nghĩa nhất. Thành công hay thất bại trong quá khứ đó là chuyện đã qua, còn hiện tại mới thật sự là những giây phút chứng minh bản thân mình sẽ cố hiến gì cho nhân loại? Chúng ta hãy bước ra từ bóng tối của quá khứ để đi đến ánh sáng của hiện tại, bắt đầu hôm nay các em nguyện làm mới mà các em sẽ làm và cô tin chắc chắn các em sẽ trở thành những người có ích cho nhân loại…

 

Đây là bài học của cuộc đời, sau này trong chúng ta sẽ trở thành những người thành đạt trong cuộc sống. Có người trở thành nhà  giáo dục đạo đức, có người trở thành luật sư giỏi để đem lại công bằng cho người cô thế, có người lại trở thành các nhà khoa học vĩ đại. Và trong số đó, đặc biệt phải nói đến Robert Harrison, cậu học sinh thấp nhất và quậy phá nhất lớp, nay đã trở thành Giám đốc tài chính của phố Wall.

Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, triều đại nhà Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm, cũng như chính sách hộ quốc an dân, khuyên mọi người giữ năm giới và tu mười điều lành, nhờ vậy đất nước phát triển vô cùng tốt đẹp. 

Năm 1299, vua Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau này vua đổi hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà ngày nay mọi người thường tôn xưng là Phật hoàng Trần Nhân Tông và là người chính thức sáng lập thiền phái Trúc Lâm.

Từ đó trở đi, thiền phái trúc lâm Yên Tử trở thành nổi tiếng, thế lực lan rộng khắp mọi nơi. Một ông vua đã từng dẫn dắt muôn dân đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Nguyên, để đem lại hòa bình và thịnh trị cho dân tộc Việt Nam.

Trúc Lâm tuy học hỏi và nhận được yếu chỉ thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ thờ ngài làm thầy, nhưng giữ giới luật nghiêm minh.

Ngài được tôn danh là Phật hoàng Trần Nhân Tông, Ngài là vị Tổ đã sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền thuần túy của Phật giáo Việt Nam.

Một nét đặc sắc nổi bật của Phật hoàng Trần Nhân Tông, đó là thái độ khoan dung của Ngài đối với một số quan lại đã viết biểu dâng cho nhà Nguyên xin đầu hàng. Đức vua đã không truy cứu trách nhiệm xử tội họ mà ra lệnh đốt bỏ các tờ biểu đó. Tấm lòng khoan dung độ lượng và sẵn sàng tha thứ của nhà vua quả là hiếm có, đã cảm hóa được họ tâm phục, khẩu phục.

Mười bốn năm trên ngôi vua, năm năm trên ngôi Thái thượng hoàng, Phật hoàng Trần Nhân Tông luôn là vị minh quân có một không hai trong lịch sử nước ta. Ngài đã biết đem giáo lý Phật-đà áp dụng cho toàn dân, nhờ vậy mọi người sống ấm no hạnh phúc và thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống, không thấy ai là kẻ thù.

Khi còn là hoàng thái tử, Ngài đã hấp thụ được tinh ba của thiền do Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ dạy nên đã trường trai và muốn ít biết đủ để sống đời đạo hạnh. Và đến khi làm vua, Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh tu hành và thường đến chùa Tư Phước trong đại nội để tu tập. Mặc dù phải giải quyết rất nhiều bộn bề công việc của đất nước, nhưng Ngài vẫn giữ vững ý chí lập trường để tu hành.

Sau khi hoàn thành trách nhiệm của một vị minh quân đối với giang sơn xã tắc, năm 1299 Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, để xuất gia tu hành trên núi Yên Tử. Điều này gợi cho chúng ta cảm nhận rằng Phật hoàng Trần Nhân Tông là Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân làm vua ở Việt Nam để cứu giúp nhân dân ta thoát khỏi khổ nạn của giặc ngoại xâm thời đó.

Chính vì vậy, đối với Phật giáo Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời là một nét son vàng sáng chói đem lại bình yên hạnh phúc cho toàn dân.

Hòa Thượng Thanh Từ ngày hôm nay đã có công rất lớn là khôi phục lại Thiền phái Trúc Lâm, đây là bước ngoặc quan trọng đang giúp mọi người trong cả nước, quy hướng về Phật giáo gầy dựng con người sống làm việc theo tinh thần từ bi hỷ xả mà cùng nhau phát triển một đất nước văn minh, giàu mạnh về vật chất lẫn tinh thần bằng trái tim thương yêu và hiểu biết.

Đọc lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ, chúng ta có thể hãnh diện vì Ngài là một vị Thái tử chuẩn bị lên ngôi vua, lại dám bỏ ngai vàng để đi tu, điều này rất hiếm có trong lịch sử nhân loại. Người khai sáng ra đạo Phật của chúng ta là người sắp hưởng địa vị cao tột nhất thế gian mà Ngài vẫn không màng đến, ra đi tìm đạo để giác ngộ cho mình và tất cả chúng sinh. Ngày hôm nay, Phật giáo đã được truyền bá sâu rộng khắp thế giới là một dấu ấn quan trọng để mọi người biết cách chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Chúng ta càng hãnh diện hơn nữa, ở Việt Nam một ông vua đi tu. Đang làm vua đủ uy quyền thế lực muốn gì được nấy, hưởng thụ đầy đủ các dục lạc thế gian, vậy mà vua Trần Nhân Tông lại đem tất cả sự nghiệp giao cho con để đi tu. Tư cách xuất gia của Ngài là một điểm son sáng chói, khiến chúng ta càng tự hào hãnh diện hơn nữa.

Đức Phật là một Thái tử đi tu, ông Tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm thuần chất Việt Nam của mình là một ông vua đi tu, còn chúng ta là những thành phần nào trong xã hội? So với đức Phật và Sơ tổ Trúc Lâm, các Ngài ở trong hoàn cảnh cao sang quyền quý mà vẫn dứt ra được để thành tựu viên mãn. Những việc rất khó làm mà các Ngài đã làm được, thì ngày nay chúng ta là những kẻ hậu học phải tâm quyết nhiều hơn nữa trong việc tu hành của mình bằng cách giữ giới, thiền định, bố thí và dùng trí tuệ để soi sáng phiền não nhiễm ô tan hòa vào chân tâm hay phật tính sáng suốt của mình.

Như vậy về mặt lịch sử, chúng ta hãnh diện thấy Phật Tổ cũng là một con người như tất cả mọi người, nhờ quyết chí kiên trì bền bỉ trong việc tu hành nhờ thấy được hạnh phúc thế gian chỉ là tạm bợ không dài lâu bởi sự vô thường đổi thay của nó. Nhờ vậy, chúng ta sẽ tin chắc rằng nếu quyết chí tu hành, cố gắng buông xả không chấp trước vào ta, người, chúng sinh hay thân tâm hoàn cảnh là thật, thì sẽ đạt được kết quả tốt đẹp….

Chúng tôi đã đọc câu chuyện này trong một duyên rất tình cờ, nay viết lại để chúng ta cùng suy gẫm? Mỗi sáng thức dậy, ta có một ngày mới để yêu thương, ai có nổ lực chuyên cần và có quyết tâm cao độ thì sẽ vượt qua mọi sóng gió cuộc đời. Chúng ta đang thở và biết mình đang sống, tuy nhiên vượt cạn lên bờ được mấy ai? Vì dòng đời lúc nào cũng muốn nhấn chìm dù đó là nhân nghĩa của một con người. Chúng ta có quyền hy vọng, có quyền vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời, bởi vì ngày hôm qua là quá khứ, ngài mai thì chưa đến, hôm nay là hiện tại với những món quà có ý nghĩa.

Chúng ta hãy bỏ lại quá khứ tốt và xấu, bởi nó chỉ là dĩ vãng của những gì đã qua, tương lai còn xa tít ở chân trời góc biển ta khó tìm đến, hiện tại với những việc làm ích nước lợi nhà, đó mới là điều quan trọng nhất trong cuộc đời mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 6713)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 11817)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 8584)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 50823)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 5347)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 6588)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 9835)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 5808)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 5626)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 7395)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567