Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tứ Chúng Đồng Tu

03/05/201203:34(Xem: 9468)
Tứ Chúng Đồng Tu

 buddha-5

 

TỨ CHÚNG ĐỒNG TU,

THÁNH PHÀM ĐỒNG CƯ ĐỘ

 

 

Bà Cụ nhà tôi và nhà tôi chuyên tu Tịnh Độ. Mỗi ngày bà cụ ít nhất ba lần công phu niệm Phật. Nhà tôi ít nhất mỗi ngày một lần, từ 5 giờ đến 7 giờ sáng. Khi nghe bàn đến chuyện Tịnh Độ thì nhà tôi như rồng gặp mây, thao thao bất tuyệt, cho rằng mình đã đi đúng đường, vì căn cơ thấp nên không thể hành trì thiền quán mà chỉ biết trì danh niệm Phật, tụng kinh bái sám, để một ngày nào đó được vãng sinh vào thế giới Cực Lạc.

Tôi hỏi nhà tôi tại sao cầu vãng sinh Cực Lạc? Cực Lạc nằm ở đâu? Cực Lạc có gì hay mà cầu vãng sinh? Bà nhìn tôi có vẻ không tin vào lỗ tai của bà ta, vì một Phật tử ai lại hỏi những câu hỏi lạ kỳ như vậy. Tôi lại làm cho bà bối rối them khi tôi nói trong đạo lý Thật Tướng, thì làm gì có sinh tử, khổ đau? Trong đạo lý Bất Sinh, Bất Diệt, Bất Lai, Bất Khứ thì làm gì có Ta Bà, Tịnh Độ.  Trong đạo lý Như Như, thì Như Lai không xuất thế, Như Lai không nhập Niết Bàn, thì làm gì có Cực Lạc, Ta Bà? Rồi tôi dẫn chứng lời Phật dạy trong Kinh Duy Ma Cật: “Này Bảo Tích, chúng sinh là cõi Phật của Bồ Tát, vì sao vậy? Vì Bồ Tát muốn giáo hóa chúng sinh, muốn điều phục chúng sinh, tùy tâm nguyện chúng sinh mà tiếp nhận cõi Phật. Như người muốn xây dựng lâu đài phải xây trên đất chứ không phải xây trong hư không. Bồ Tát cũng thế, vì muốn thành tựu chúng sinh mà tiếp nhận cõi Phật.”

Bà được thế, chụp vội: “Anh thấy chưa trong đoạn Kinh anh dẫn chứng Phật dạy…” Tùy tâm nguyện chúng sinh mà Bồ Tát tiếp nhận cõi Phật.” Như vậy rõ ràng là có cõi Phật được Bồ Tát vì chúng sinh mà tiếp nhận.”

Tôi nói: “Thôi được, cho bà có lý đi. Bà có biết không, niềm tin nơi đức Phật A Di Đà là kết quả của sự chiêm nghiệm về Báo Thân và Pháp Thân Phật. Nếu vượt qua mọi hình tướng, sắc thái của vị Phật lịch sử, vị Hóa Thân Phật, ta sẽ tìm thấy một đức Phật lý tưởng hợp với quả vị phước báo từ bao số kiếp, hợp với sự giác ngộ viên mãn. Nói một cách khác, nếu chúng ta mô tả một vị Phật dựa trên căn bản giác ngộ viên mãn, chúng ta sẽ có một đức Phật tràn đầy ánh sáng, sống lâu vô lượng kiếp, đức Phật Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Bà thường đọc Kinh Pháp Hoa, trong Kinh, đức Thích Ca Mâu Ni ẩn dụ cho hàng đệ tử không nên xem ngài như một vị Phật sinh ở xứ Ca Tỳ La Vệ, xuất gia, hành thiền, tu chứng, nhập diệt, một vị Phật với thọ mạng 80 năm, với công hạnh trên 45 năm, mà ngài thật sự là một vị đã thành Phật lâu đời, lâu kiếp, thời gian vô cùng, hiện thân khắp nơi, không gian vô tận, là đức Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang Phật, không khác đức Phật A Di Đà…”

“Nhưng cảnh giới Ta Bà”, tôi nói tiếp “theo Kinh A Di Đà làm bằng vàng, bằng ngọc, bằng trân châu, mã não có vẻ nhân tạo như vậy đâu có thích thú, làm gì có ánh mặt trời, có cảnh chiều tà, có chiếc lá vàng rụng cuốn theo chiều gió, làm gì có trận mưa ngâu, làm gì có ánh bình minh chói rọi… những vẻ đẹp thiên nhiên mà thế giới Cực Lạc không có! Còn nữa, sinh trên đài sen, trong vườn hoa sen ngũ sắc, nghe âm nhạc suốt ngày! Bà cứ tưởng tượng mình bị đầy ra Côn Đảo, hòn đảo lớn như vậy mà mình còn cảm thấy tù túng, bị cô đơn, bây giờ ngồi trên đài sen, giữa hồ, thì cô đơn biết mấy, tù túng biết mấy, rồi còn phải nghe nhạc suốt ngày, không có phút nào yên tĩnh, thì làm sao chịu cho nổi!”

Bà ta có vẻ bực tức nói: “Không ngờ anh quá gàn bướng.  Tưởng anh nghiên cứu sách Phật nhiều, tưởng anh đa văn, túc trí, không ngờ anh không có một sáng tạo nào cả! Anh có nghe câu “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan không?” Lời nói trong Kinh A Di Đà là để diễn tả sự hoàn hảo của thế giới Cực Lạc và lẽ dĩ nhiên ngôn từ không làm sao chuyên chở được toàn ý nghiã.  Chính vì vậy mà Phật sau 49 năm thuyết pháp đã dạy là Ngài không nói một lời nào.”

Không ngờ bà ta khá thật. Tôi hỏi thêm để thử khả năng thâm nhập Phật lý của bà: “Thế giới Cực Lạc như vậy có khác gì Thiên Đường! Bà cầu về Cực Lạc để hưởng thụ và tệ nhất là để hưởng thụ cá nhân mặc cho ai sống khổ đau ở thế giới Ta Bà!”

Bà nói: “Tôi chán anh quá, anh chả biết Phật Pháp tí nào cả.  Thế mà đòi viết sách Phật, ưa đi giảng đạo. Khi lý tưởng về Niết bàn vượt không gian, thời gian, được thể hiện thì đấy chính là Vô Tận hay Vô Lượng, là Di Đà hay Amida hay Amitabha. Sự mô tả về cảnh Cực Lạc chỉ là giải thích đặc tính Vô Lượng của giác ngộ viên mãn. Cực Lạc là nơi Tứ Chúng đồng tu, nơi Thánh Phàm cùng cư trú (Tứ Chúng Đồng Tu, Thánh Phàm Đồng Cư Độ), không phải là nơi chỉ để hưởng lạc mà là nơi thuận tiện cho con đường tiến tu của Tứ Chúng, không phải ích kỷ cho riêng mình, mà là nơi Thánh cũng như Phàm cùng nhau sống, tu, trên hành trình giác ngộ, giải thoát và hành trình ấy được xây đắp không bằng tự lợi mà bằng lợi tha, chính lợi tha là tự lợi, nên không phải dửng dưng trước sự khổ đau của đồng loại, chúng sinh. Kinh Hoa Nghiêm khai triển đạo lý trùng trùng duyên khởi, chủ trương vạn vật trên thế gian liên hệ mật thiết với nhau như lưới pháp châu, mọi động tác, lời nói, ý nghĩ ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, tự lợi là lợi tha, lợi tha là tự lợi, không có cái gì đứng riêng rẽ một mình.”

Bà dừng lại, rồi nói: “Chắc anh biết hết rồi, muốn chọc quê em chứ gì. Có điều em muốn hỏi anh, trong các Kinh khác Phật thường dạy ‘Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi’ bây giờ Kinh A Di Đà lại nói nhờ vào tha lực vào sự cứu độ của Phật A Di Đà, như vậy có mâu thuẫn không anh?”

Tôi nói: “Không biết bà đã đọc Kinh Na Tiên Tỳ Kheo chưa? Trong Kinh thuật chuyện vua Milinda, một hoàng đế Hy Lạp trì vì Sagara vào khoảng năm 115 trước kỷ nguyên, hỏi ngày Na Tiên (Nagasena) tại sao người ác lại được cứu độ nếu tin tưởng vào vị Phật trước khi chết. Na Tiên trả lời, một hòn đá dầu nhỏ mấy đi nữa, nếu quăng xuống nước, nó sẽ chìm, nhưng một tảng đá nặng ngàn cân, nếu để trên chiếc tàu cũng sẽ nổi trên mặt nước.  Ngài Long Thọ (Nagarjuna 100-200) nói có hai phương tiện đưa đến Phật quả, một khó như đi bộ, một dễ như đi thuyền. Tín ngưỡng Di Đà là con thuyền chở người đến cõi Tịnh Độ.”

 

Đời là một cuộc hành trình. Trong dòng sinh tử Ta Bà, chúng ta đã trải qua bao nhiêu số kiếp, bao nhiêu cuộc hành trình, bập bềnh trên sóng vô minh, tật đố, thị phi, đầy khổ não. Nhưng cuộc đời thật sự đáng chán như vậy sao? Người tu Tịnh Độ nhìn đời không những là cuộc hành trình mà còn là chuyến hành hương.  Bà Vi Đề Hy được Phật khai thị đã đi hành hương từ Phật độ này đến Phật độ khác, cuối cùng bà chọn cảnh Tịnh Độ làm nơi an dưỡng, tiến tu. Nhờ kinh nghiệm khổ đau mà bà Vi Đề Hy được thấy cảnh Tây Phương Cực Lạc. Ta Bà là chuyến hành hương.  Thế giới khổ đau là hy vọng chứ không phải tuyệt vọng. Đạo lý Tịnh Độ không bi quan yếm thế mà là đạo lý Bạt Khổ Dữ Lạc, đạo lý dứt khổ cho vui.

Phương pháp diệt khổ dữ lạc của đạo Bồ Tát như thế nào?  Ngay trong khổ đau mà tìm ra giá trị tôn giáo và đạo đức. Không xa lánh, không trốn tránh, không loại bỏ mà cưu mang tất cả.  Cảnh giới Cực Lạc có chin phẩm, dung chứa chín trình độ tu chứng, dung chứa 4 chúng đệ tử, dung chứa thánh, phàm. Tuy có trật tự 9 phẩm, tuy có thấp cao giữa Hạ Phẩm Hạ Sinh đến Thượng Phẩm Thượng Sinh, nhưng không vì phẩm trật mà loại bỏ, mà bớt cưu mang, Thánh Phàm không vì vậy mà phải phân biệt chống đối lẫn nhau, Thánh Phàm cùng nhau tu tập, thẳng tiến trên hành trình giải thoát, giác ngộ.

 

Cảnh giới Cực Lạc huy hoàng rực rỡ mà hài hòa dung dị.  Những người tu Tịnh Độ không thể không đem biểu tượng này áp dụng vào đời sống hằng ngày, vào mọi hành hoạt của mình, đối với bản thân, với người đồng đạo, với cộng đồng nhân loại. Ta không thể xây dựng Tịnh Độ trong hư không mà xây dựng nó trên nền tảng vững chắc, trên những yếu tố nhân duyên phù hợp với thế giới Tịnh Độ, được khai triển từ trong Tứ Nhiếp Pháp:  Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự.

Bố Thí ở đây là san sẻ. San sẻ tài vật, san sẻ đạo pháp, san sẻ cái vui, cái buồn, cái vinh, cái nhục của nhau, cho nhau, để làm tăng trưởng Phật tính duy nhất của toàn thể chúng sinh, để cùng giúp nhau tiến tu trên đường giải thoát, để cùng nhau hướng về cảnh Tây Phương Cực Lạc.

Ái Ngữ ở đây là những lời nói nhu mì, thương yêu, thông cảm, công bằng, hợp lý.  Không che dấu tội phạm nhưng không làm bức xúc những người phạm lỗi, cổ vũ ưu điểm hơn là khuyết trương nhược điểm, mục đích giúp nhau trên hành trình giác ngộ, giải thoát, giúp nhau trong nhiệm vụ cứu mình, cứu người, là nền tảng âm nhạc trong cảnh Tây Phương Tịnh Độ.

Lợi Hành ở đây là mọi ý nghĩ, lời nói, hành động đều hướng đến phúc lợi cho mình, cho người, làm nền tảng cho Tứ Chúng Đồng Tu, Thánh Phàm Đồng Cự Độ.

Đồng Sự ở đây là không phân biệt ngã nhân. Nặng nhọc không từ, hành hoạt trong mọi hình hài, “tố phú quí hành hồ phú quí, tố bần tiện hành hồ bần tiện, tố di địch hành hồ di địch.” “Một là tất cả, tất cả là một” thiên hình vạn trạng, “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên.”

 

Xuất phát từ tâm từ bi, đạo Bồ Tát kiến thiết Tịnh Độ để nâng cao lý tưởng Bồ Tát, để hình thành lý tưởng độ sinh. Tịnh Độ là công năng xã hội hóa lý tưởng tự độ, độ tha.  Không có Tịnh Độ thì lý tưởng Bồ Tát không thể thành tựu. Không có Ta Bà thì lý tưởng Bồ Tát không có cơ sở và cơ hội thực hiện.

Sau khi Phật thành đạo, bài thuyết pháp đầu tiên Dhammacakka Pavattana, thường dịch là Kinh Chuyển Pháp Luân, được dịch ra tiếng Anh là Kiến Thiết Vương Quốc Chánh Pháp (The Establishment of the Kingdom od Truth). Cách dịch này khá ý vị. Đức Phật là vị Pháp Vương, muốn xây dựng một Vương Quốc Chánh Pháp. Đưa cái Vương Quốc Chánh Pháp ấy đến cực độ mà phác họa nó thành cụ thể, đó là thuyết Tịnh Độ.  Tịnh Độ có nhiều đặc tướng, nhưng đặc tướng quan trọng nhất là sự hoàn bị trật tự đạo đức. Nhìn vào nội dung Bản Nguyện, về phương diện tiêu cực là ngăn ngừa mọi tội lỗi, về phương diện tích cực là khuyến khích mọi người cùng tiến đến đạo đức và nền tảng của đạo đức là Tứ Nhiếp Pháp.

Tịnh Độ ở phương tây có Thế Giới Cực Lạc, ở phương đông có A Sơ Phật Quốc. Giữa hai cảnh Tịnh Độ này có một quan hệ mật thiết:  Nếu ở cõi Phật này xảy ra đại sự (đại thuyết pháp chẳng hạn) thì cõi Phật khác gửi sứ giả đến tùy hỷ, tán thán, nói lên tinh thần Tịnh Độ liên kết mười phương. Hành giả Tịnh Độ, người tu Phật không thể bỏ qua yếu tố này, yếu tố yểm trợ lẫn nhau, cùng nhau sách tấn trên đường giải thoát, giác ngộ.

Người tu Tịnh Độ hay người nỗ lực trên hành trình giác ngộ phải đầy đủ 4 tư lương cần thiết đó là Tín Tâm, Chí Thành Tâm, Thâm Tâm, Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm. Không những người tu Tịnh Độ mà bất kỳ người muốn hành hoạt Phật sự nào cũng phải đầy đủ 4 tư lương ấy.

Trước khi dùng 4 tư lương cho cuộc hành trình, cần phải hành trì Sám Hối. Tác dụng của Sám Hối cũng như người ta mỗi buổi sáng thức dậy đánh răng, súc miệng, rửa mặt, tắm gội cho thân thanh tịnh, thì Sám Hối là phương thức làm cho tâm thanh tịnh. Kinh Đại Thừa Bổn Sinh Tâm Địa Quán nói: “Sám hối có thể thiêu đốt củi phiền não, sám hối có thể vãng sanh cõi trời, sám hối có thể được cái vui tứ thiền, sám hối như mưa báu Ma Ni Châu, sám hối có thể ra ngục tam giới, sám hối có thể khai hoa bồ đề, sám hối thấy được Đại Viên Kính của Phật, sám hối có thể đến nơi Bảo Sở.”

Mọi hành hoạt của người con Phật, của Phật Giáo, phải bắt đầu bằng Sám Hối, cho bao nhiêu ân oán thị phi, thương buồn, ghét giận đều rửa sạch, cho lòng thanh thỏa, “hội họp trong hòa thuận, thảo luận trong hòa thuận, chia tay trong hòa thuận,”, thực hiện một cơ cấu, một tổ chức trong đó Tứ Chúng Đồng Tu, Thánh Phàm Đồng Cư Độ.

 

Ở trên tôi có nói đời là cuộc hành trình, đời là chuyến hành hương. Nói đến hành trình, hành hương là nói đến người tham gia, nói đến những đoạn đường đi qua. Người tham gia có kẻ đến trước, có kẻ đến sau, có hàng thanh niên sức khoẻ dồi dào, có bậc phụ lão gần đất xa trời; những đoạn đường đi qua có nơi bằng phẳng, có chỗ gập ghềnh. Không vì thành phần tham gia khác nhau, không vì những đoạn đường khác nhau mà ta thối chuyển, mà không cố gắng vượt qua.

Cuộc sống, Duy Thức gọi là Hằng Chuyển Như Bộc Lưu, như giòng nước chảy, biến chuyển không ngừng. Chuyển biến nên không có tự ngã, không có gì để bám chặt vào. Đợt nước này qua đợt nước khác nối nhau chảy, biến thành giòng nước, nói lên sự liên tục và tương liên của nó. Hiện hữu nhưng không có tự ngã.  Trong cái hiện hữu ấy, chúng ta khổ, chúng ta bức xúc, nhưng cũng trong cái hiện hữu ấy chúng ta có dịp hoàn thành tâm nguyện, có dịp tiến tu. Trong cái thế giới cạnh tranh có những hùng tâm muốn kiến tạo một xã hội lý tưởng trên lập trường Lân Mẫn Hữu Tình. Phật Giáo có giúp cho họ nơi nương tựa ấy? Có giúp họ triển khai tinh thần đại từ bi, tinh thần “Ngũ Trược Ác Thế Thệ Tiên Nhập, Như Nhất Chúng Sinh Vị Thành Phật, Chung Bất Ư Thử Thủ Nê Hoàn?”

 

Trí Không - Trần Quang Thuận

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/01/2016(Xem: 8297)
Một đời người thường cần đến ba năm đầu của tuổi thơ để học nói. Nhưng chưa hề nghe nói là người ta bỏ ra bao năm để học nghe. Bởi vậy, lịch sử nhân loại đã vinh danh rất nhiều nhà hùng biện, trạng sư, diễn giả, thuyết khách tài ba vì nói hay, nói giỏi mà chẳng có một “nhà nghe” - thính giả hay văn giả chẳng hạn - tài danh nào vì biết nghe giỏi được nhắc đến. Điều này có nghĩa là người ta có thể chỉ cần ba năm để học nói, nhưng bỏ ra cả đời vẫn chưa thể học nghe. Phải chăng vì thế mà khi có người hỏi thiên tài âm nhạc Beethoven về nốt nhạc nào là nốt có âm thanh hay nhất trong âm nhạc, Beethoven đã trả lời: “Dấu lặng!”.
26/01/2016(Xem: 7540)
Tôi còn nhớ như in câu chuyện hồi nhỏ, năm tôi học lớp 7. Thầy giáo ra một bài toán rất khó mà không ai giải được. Tôi, một đứa học trò thường đứng top nhất nhì lớp, thường xung phong lên bảng. Nhưng hôm đó thật sự là một bài toán hóc búa. Không ai tìm ra được lời giải. Kể cả tôi. Bài toán khó đó đã “ám” tôi từ lúc tan học cho đến khi về đến nhà. Ăn xong cơm tôi vội lao vào giải tiếp. Nhưng vẫn không tìm ra đáp án. Đến lúc đi ngủ, bài toán đó vẫn lảng vảng trong đầu tôi. Tôi thiếp đi trong suy nghĩ về bài toán. Và trong giấc ngủ, tôi mơ mình đã tìm ra phương án giải bài toán đó.
25/01/2016(Xem: 13964)
Em đừng mãi loay hoay tìm chỗ đứng Cần hỏi mình rằng: '' phải Sống làm sao? '' Vẫn có đấy, những người trong thầm lặng Cúi xuống tận cùng mà hồn lại thanh cao!.
24/01/2016(Xem: 8088)
Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết về một phụ nữ Pháp thật phi thường là bà Alexandra David-Néel (1868-1969), đăng trên tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste, số l1, năm 2015). Trong Phật giáo có rất nhiều phụ nữ siêu việt và khác thường, xứng đáng cho chúng ta ngưỡng mộ và kính phục, mà bà Alexandra David-Néel là một trong những người phụ nữ ấy. Bài chuyển ngữ dưới đây là bài thứ ba trong một loạt bài với chủ đề "Phật giáo và người phụ nữ":
23/01/2016(Xem: 9285)
Hãng tin AP mới đây đã dẫn lại 3 cuộc trả lời phỏng vấn của Tổng thống Obama với các thành viên trên mạng Youtube. Trong một cuộc phỏng vấn kéo dài 35 phút, một thành viên trên Youtube có tên Ingrid Nilsen, hay còn gọi là Missglamorazzi, đã hỏi ông Obama về những món đồ có ý nghĩa đặc biệt với ông và đề nghị ông chia sẻ vài điều về chúng.
23/01/2016(Xem: 6727)
Bất cứ quốc gia nào, xã hội nào cũng có những loại tín ngưỡng truyền thống do nhiều thế hệ lưu lại. Một quốc gia có tuổi càng cao, có chiều dài lịch sử càng nhiều, gắn liền với nền văn hóa bản địa là có một số tín ngưỡng bản địa. Riêng Việt Nam, tín ngưỡng nhân gian gồm có: - Tín ngưỡng phồn thực - Tam phủ, Tứ phủ - Thờ động vật và thực vật - Tín ngưỡng sùng bái con người.
22/01/2016(Xem: 7084)
Đó là chuyện ông Darwin với chuyện khỉ vượn thành người. Tôi không có tham vọngviết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882). Nhưng đã nhắc tới tên vị bác học cha đẻ củaThuyết tiến hóa thì không thể không nhắc sơ lược về cuộc đời của con người vĩ đại ấy.
21/01/2016(Xem: 11261)
Tại các nước kỹ nghệ phát triển, thịt cá là một phần quan trọng trong đồ ăn. Riêng tại Hoa Kỳ giàu có, thịt là món ăn chính trong bữa đối với nhiều người. Nhưng trong những thời gian gần đây, ăn chay đã trở thành một phong trào. Đồ chay chế biến đủ loại bày bán trong các tiệm thực phẩm sức khỏe (health food stores). Trong khung cảnh này, người ta ăn chay vì những lý do khác nhau: Bảo vệ môi sinh, chăm lo sức khỏe, thương yêu súc vật, lý do thời thượng, và cả vì lý do thương mại.
21/01/2016(Xem: 5730)
Thiền Viện Phước Hoa (xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai), là một nơi đặc biệt như thế. Ba mươi năm qua, kể từ ngày cố Hòa thượng Thích Thông Quả, đặt nhát cuốc đầu tiên xuống mảnh đất khô cằn hoang hóa này, có những giọt mồ hôi nhọc nhằn hòa lẫn với bao lo toan trăn trở, bằng tâm nguyện nhiếp hóa đồ chúng, phổ độ quần sanh, đã biến nơi đây thành chốn yên bình không những cho tông môn hậu tấn mà còn là nơi dành cho những cánh chim của thơ ca và nghệ thuật Phật giáo ghé tựa đôi chân, cùng góp phần vào công hạnh truyền thừa Chánh pháp một cách rất tự tại và khẳng khái.
21/01/2016(Xem: 5158)
Phẩm Tâm Của Mình Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo. - Bạch Thế Tôn. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]