Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm Lại Chiếc Áo Giải Thoát

26/11/201123:58(Xem: 7016)
Tìm Lại Chiếc Áo Giải Thoát
tusilebai_1
TÌM LẠI CHIẾC ÁO GIẢI THOÁT

Thích Hạnh Thu

Ngày nay có nhiều người cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy có vị tu sĩ mang giày da, mặc áo đời thường, thậm chí ra vào chùa ngang nhiên, tăng tục khó phân. Lại nữa, y phục trong chùa lại lắm màu lắm vẻ, chất liệu thì mỏng dính, thướt tha chảy dài, gấm vóc lụa là thay nhau trình diễn. Nhìn ra có vẻ mất trang nghiêm, xuất gia lánh xa bụi trần chỉ cần 3 y và 1 bình bát sao đành chịu vùi vào thế tục. Khiến người than trách.

Người xuất gia tu hành ăn mặc giản dị, sống cuộc sống bình thường, tuy Đức Phật vì phương tiện mà mùa đông cho thêm áo, nhưng không phải là lí do để mưu cầu tích trữ. Đức Phật và chúng tăng ngày xưa chỉ mặc y phấn tảo. Y phấn tảo là sự tượng trưng của đời sống thanh đạm không tham cầu của một người tu học. Càng về sau Đức Phật tuy cho phép Tăng sĩ nhận đồ cúng dường của tín chủ, nhưng xác định rõ ràng không được mặc đồ xa hoa trân quí.

Có một lần, Đức Phật đi từ thành Xá Vệ đến thành Vệ Xá Li, trên đường Ngài nhìn thấy một số đệ tử vác từng bao áo quần y hậu, Ngài bèn nghĩ: “Những người ngu này dùng hết sức lực chỉ cho việc mặc.” Do vậy, Đức Phật cấm chỉ tì kheo tích trữ nhiều y áo, và quy định mỗi người chỉ có thể giữ 3 y, nếu có Phật tử nào cúng thêm, thì vị tỉ kheo đó phải đem cúng dường lại cho vị khác có y bị rách hoặc chưa đủ y.

Lần kết tập kinh điển thứ nhất, khi tôn giả A Nan thay mặt 500 vị tỉ kheo tiếp nhận 500 bộ y do những cung nữ của vua Ưu Điền thành tâm cúng dường. Vua Ưu Điền sau nghe sự việc này cảm thấy lạ, thế nhưng vẫn nói đùa: “Nhận nhiều y như thế tôn giả A Nan không phải thành một người buôn áo quần sao.” Thấy hiếu kì, nhà vua bèn đến gặp tôn giả A Nan, đồng thời thị sát xem 500 bộ y chạy đi đâu. Sau đây là cuộc đối thoại giữa vua và tôn giả A Nan.

Tôn giả A Nan nói: “Tâu Đại Vương, 500 bộ y đã chuyển đến cho 500 vị tì kheo có y bị rách.”

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn 500 bộ y rách kia làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm ra trải giường.”

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn những ra trải giường cũ thì làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm gối.”

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, những chiếc gối cũ kia làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm đệm ngồi.”

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn những đệm ngồi cũ thì làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm khăn lau chân."

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn những khăn lau chân cũ thì làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, dùng để làm khăn lau nhà."

Vua: “Vậy thì, thưa Tôn giả A Nan, còn những khăn lau nhà cũ thì làm thế nào?”

Tôn giả A Nan: “Tâu Đại vương, những chiếc khăn lau nhà sau khi đã hư mục thì dùng để trộn với đất bùn làm nền nhà."

Vua Ưu Điền sau khi nhận thấy các tỉ kheo không lãng phí đồ vật, nhà vua không những lấy làm kính phục mà còn phát tâm cúng thêm 500 bộ y nữa cho tôn giả A Nan và tăng chúng.

Sự tôn quí của Tăng chúng đó là khi họ có thể như pháp, như luật thực hành lời Đức Phật đã dạy, do đó mà toả ra cái đức của người tu hành. Thử nghĩ xem một người xuất gia mặc một bộ y có chất liệu sang trọng làm hoa mắt người đời, lời nói thì thô tháo, nhiễm thói đời thường, thích thú hư vinh, những người như thế thì nên xem như thế nào? Còn khi nhìn thấy những bức tranh ngày xưa của các vị cao tăng với y áo giản dị, nhưng toát lên thiền vị giải thoát, chỉ cần nhìn thôi cũng thấy an lạc. Nhìn những hình ảnh đó của những vị cao tăng chỉ mới gần đây thôi khiến cho chúng ta cảm thấy thân thiết tôn kính. Tại sao nhìn thấy những vị tăng ngày nay mặc những bộ y phục với chất liệu xa hoa, ngược lại nhìn thấy giả tạo khó coi.

Là bậc xuất trần thượng sĩ luôn tự xem mình là người thiểu dục tri túc, không màn danh lợi, chuyên tâm tu học thì càng phải vật chất bên ngoài mà cần cầu quán sát nội tâm bên trong. Tăng sĩ cần phải có khí chất chứ không cần vật chất để trau chuốt, thích y áo và sự xa hoa bên ngoài làm sao mà khai mở cho được vô minh. Y áo mũ mảo đi với má phấn hài son cũng không thể nào che đậy được thân uế bẩn, làm sao xả bỏ các duyên, để đạt đến an tường tự tại.

Có một người bạn (vong viên chi hữu) nói với tôi rằng: “Tôi có một tình cảm tốt với Phật giáo là từ lúc mà tôi trông thấy một vị tu sĩ với khí chất khác thường, lúc đó chỉ đứng xa mà nhìn vị ấy mặc trên mình một chiếc áo nhà chùa bằng vải thô, nhưng cái thần tình an nhiên tự tại, trang nghiêm đỉnh đạt khiến tôi lấy làm mến mộ. Khí chất siêu thoát đó thì người hiện đại không so sánh được, chỉ thấy tính tháo động, hoảng hốt, bất an hiện rõ. Thế rồi từ đó tôi càng tiếp xúc với Phật giáo, càng học càng thấy sáng. Phật giáo làm cho đời sống của tôi có nhiều thay đổi tốt đẹp.” Người ấy vừa nói vừa biểu hiện những cử chỉ của một bậc cao sĩ, nhìn thấy dáng điệu chân thành thật đáng kính trọng.

Đúng như thế, thấy được thân giáo cũng có thể cho thấy điều này, ngày xưa khi tôn giả Xá-lợi-phất là một ngoại đạo hiểu nhiều biết rộng, nhưng khi nhìn thấy tì kheo Mã Thắng với phong cách uy nghi đỉnh đạt mà phát tâm quy y Phật. Có rất nhiều người phát tâm quy y với Phật giáo không phải ban đầu tiếp xúc với sự đỉnh đạt đó hay sao? Nhưng nay nhìn vào cái xa hoa lộng lẫy, hài đỏ mũ hoa thì lại như bị chọc tròng mắt.

Người đời tiếp nhận người xuất gia cũng không phải qua áo quần quí giá, mà chỉ là qua cung cách siêu phàm thoát tục. Các vị cao tăng xưa nay đều biểu hiện cung cách không hèn không ngạo, không sợ sệt khiến cho các vua chúa và cả người bất lương quy kính. Một hành giả với cốt cách thanh cao, tuy chỉ mang dày cỏ, mặc áo vải thô cũng có thể toả ra sự tôn quí.

Người tu hành mặc y phục vải thô càng dễ chịu, thể hiện tính thiểu dục và đơn giản, vải thô dễ thoáng khí và mát, có lợi cho việc ngồi thiền tụng kinh. Ngoài ra áo quần được may bằng vải sợi, khi nhìn thấy gần gũi với tự nhiên và thanh thoát.

Hoặc mang một đôi dép mộc cũng là một phong thái nhẹ nhàng, vừa gần gũi với cây cỏ và cũng là một cách bình dị dễ thương.

Những nhà tạo mẫu hiện nay cho rằng nghệ thuật thẩm mỹ cũng phải gần gũi với tự nhiên và tôn trọng tính tự nhiên. Ví như một cái túi xách thời trang có thể làm từ cỏ tự nhiên, nhưng nhờ vào bàn tay con người mà nó trở thành sản phẩm vừa thời trang vừa thẩm mĩ. Một chiếc áo với chất liệu vải thô cũng làm cho con người dễ chịu tao nhã. Đó là nói đến cái đẹp của thế gian. Còn người xuất thế thì sao?

Y phục của người xuất gia cũng gây nhiều sự chú ý của giới nghệ thuật, chiếc áo cà sa đã đi vào văn học dân gian, im đậm vào văn hoá và tư tưởng con người. Người xuất gia mặc áo nhà chùa trông trang nghiêm và dễ mến, kể cả nếp nhăn hoặc nếp rũ trên cà sa. Xin hãy biết tôn trọng đừng làm cho hoen ố và biến tướng. Có người bảo tại sao y phục nhà chùa mặc vào trang nghiêm và thanh thoát? Đúng vậy vì hình thức và nội dung hài hoà mộc mạc. Đó là thẩm mĩ, không đúng sao?

Đúng thế, hài hoà là đẹp, một trang phục đẹp phải hài hoà từ màu sắc cho đến kiểu dáng, tránh choải nhau. Còn người xuất gia tìm cầu đạo giải thoát thanh tịnh thì phù hợp với mộc mạc tự nhiên, ngược lại gấm vóc lụa là không hợp với người xuất gia. Có truyền thống và trang phục truyền thống làm người khác dễ mến và dễ chấp nhận. Nếu một người xuất gia tham sắc cầu danh, thích xa hoa lộng lẫy, ăn mặc sang trọng không những là cho người khác mất tín tâm mà còn bị cười chê, không hổ thẹn sao! Nếu đem chuyện một người xuất gia chuyên lo tủ áo quần, y hậu gấm vóc, trang sức chuỗi ngọc có phải làm cho người nghe choáng váng. Bạn là người xuất gia, có thể bạn không quan tâm, nhưng lương tri của bạn đang lên tiếng đó!

Nhìn xem hình ảnh của các sư tăng Phật giáo nguyên thuỷ cho đến nay vẫn mặc bộ cà sa do Đức Phật chế ra, đang khoan thai bước nhẹ trên phố phường hiện đại khiến người khác kính ngưỡng và phát khởi tín tâm.

Phật giáo ở các nước bắc truyền màu sắc vừa thiếu thống nhất, nhiều loại y phục khác nhau, nếu mỗi người tự tiện chọn màu, tự tiện tạo mẫu, thì không biết bao lâu nữa y phục truyền thống biến dạng và loạn xạ. Từ chỗ biến dạng đó mà Tăng chúng trở nên ô hợp. Nếu người xuất gia không tự giác thì tự đánh mất mình, tự đào thải mình, tích tập các ác hạnh, thiếu qui củ và dễ bề cho ma chướng ngoại đạo phá hoại. Chắc chắn trong sự bê bối này tăng ni không có lợi ích gì trong việc tu học nhưng các cơ sở may mặc tăng phục thì càng khoét rộng kiếm tiền.

Người xuất gia mặc y phục truyền thống giản dị, đầu tròn áo vuông, phong thái thoát tục, tại sao lại phải nhờ vào vật chất để nâng cao sở đắc của mình. Người xuất gia sống trong thời hiện đại, vật chất sung mãn cám dỗ mà nhận chân được sự lợi hại của vật chất, chuyên tâm tầm cầu chân lí giải thoát, trang nghiêm thế giới bằng hương giới định huệ, bước qua cuộc đời bằng niềm tin bất hoại.

Y áo xa hoa chỉ làm cho người khác mất đi tín tâm, mà còn tạo cho người khác sự phản cảm; người xuất gia cần thiết nhất là trau dồi giới định huệ để trang sức cho giới thân huệ mạng. Như trong kinh Di giáo Đức Phật dạy: “Hổ thẹn là trang phục đẹp nhất trong tất cả các trang phục.” Chúng ta đừng nghĩ rằng sự xa hoa, lọng lẫy trong trang phục và vật chất là chỗ bù đắp và che dấu sự yếu kém phẩm chất của mình, mà ngược lại chỉ làm cho người khác thêm khó chịu.

Người xuất gia phải mặc cho mình chiếc áo trung thực, đừng lơi lõng chính niệm với vật chất bên ngoài, mà phải luôn gìn giữ mối đạo và giải thoát. Tại sao chúng ta phải nhờ đến sự xa hoa và vật chất bên ngoài để thể hiện bản sắc của mình, không phải thế, chúng ta phải biết cái đẹp của nhân cách, đức hạnh mới là lâu dài và chân thật. Sự thanh thoát khiến người đời tín mộ của một tu sĩ là thân khẩu ý tương ưng, nghĩa là thân làm, miệng nói và ý nghĩ không trái nghịch nhau, chỉ có thân làm việc đúng đắn, miệng nói lời chân chính thì mới khế hợp với tâm giải thoát, từ đó mới làm cho phẩm hạnh của người tu toả sáng, nếu không thì miệng nói thao thao nhưng nội tâm rối loạn, làm cho phẩm hạnh khiếm khuyết không toả sáng lên được.

Người đời nay bỏ gốc tìm ngọn, bỏ trong tìm ngoài cho nên khó tránh được vật chất tiền tài làm cho mê hoặc. Nếu người xuất gia hiểu được mục đích và giá trị của việc tu hành, soi chiếu nội tâm, tu dưỡng đức hạnh, thì cho dù mang dép cỏ áo thô cũng toả sáng thanh thoát, cần gì phải đua tranh thói đời, chạy theo phù hoa vinh nhục, tránh được dèm pha, tạo thêm công đức và tín tâm của quần chúng Phật tử.

Hãy tìm lại cho mình chiếc áo giải thoát!

T.H.T (Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Liễu Quàn - Huế)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2013(Xem: 12682)
Tạp chí nghiên cứu người tiêu dùng Journal of Consumer Research công bố một khảo sát năm 2012, kiểm chứng rằng tại sao người tiêu dùng là nam giới lại thường tránh xa chuyện ăn chay. Trong đó, khảo sát này nhấn mạnh "Thịt dường như đồng nghĩa với quyền lực và sức mạnh đàn ông".
30/10/2013(Xem: 39410)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
30/10/2013(Xem: 8445)
Một nữ doanh nhân nổi tiếng trong lĩnh vực địa ốc, nổi tiếng vì sở hữu nhiều ngôi nhà đẹp, từng có nhiều bài viết sắc sảo về kinh doanh. Thời gian gần đây chị “từ bỏ cuộc chơi” để tìm về với Phật pháp và chọn Huế là nơi chốn dừng chân của mình. Trong một thời gian ngắn từ 2010 đến nay, chị đã xây dựng ở Huế ba công trình từ thiện và nổi bật là Cát Tường Quân với kiến trúc độc đáo và thanh tịnh đang trở thành điểm đến của du khách mỗi khi dừng chân ở Huế.
29/10/2013(Xem: 12565)
Trong lá thư này, Lạt Ma Zopa Rinpoche trả lời cho một sinh viên học lâu năm với Ngài, một người đã viết thư để cảm ơn Ngài đã “cầu nguyện, dạy dỗ và che chở” trong nhiều năm qua. Người sinh viên xin được giấu tên hiện đang chăm sóc cho Mẹ đang chịu nhiều đau đớn về thể xác sau khi bị hàng loạt những cơn đột quỵ. Như là một phương pháp để đương đầu với những khó khăn khi chăm sóc, người sinh viên đã tưởng tượng như đang chăm sóc cho Ngài Zopa Rinpoche khi chăm sóc cho Mẹ cô.
26/10/2013(Xem: 62934)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
24/10/2013(Xem: 13273)
Thiền định là một phương tiện chủ yếu vô song của Phật Giáo giúp người tu tập trực tiếp đạt được Giác Ngộ. Đức Phật đã nhắc đến phép luyện tập này ngay trong bài thuyết giảng đầu tiên về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) khi Ngài nói về Sự Thật Cao Quý thứ tư và Con Đường Của Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chánh Đạo). Tuy nhiên không phải vì thế mà tất cả những người tự nhận mình là Phật tử đều luyện tập thiền định.
23/10/2013(Xem: 10066)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm. Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng, nhận thức và làm được nhiều việc đóng góp lợi ích thiết thực trong bầu vũ trụ bao la này.
19/10/2013(Xem: 8490)
Ngày 27, tháng 9, năm 2013 – “Nếu bạn có thể học đi xe đạp bạn có thể học làm thế nào để được hạnh phúc,” nhà sư Phật giáo 67 tuổi và là người hạnh phúc nhất trên thế giới nói. Khi còn nhỏ, nhà thơ Andre Breton, nhà làm phim Louis Buñuel và nhạc sĩ Igor Stravinsky là những vị khách thường xuyên của gia đình triết gia Ricard. Tuy vậy, nhận thấy đặc tính của những người bạn của song thân không có vẻ gì là hạnh phúc hơn nên Ngài đã tìm đến Hy mã lạp sơn bỏ sau lưng công việc của một nhà sinh học tại Viện Pasteur và thay đổi cuộc đời qua thiền tập. Tính đến lần cuối cùng, Ngài đã đạt được hơn 10,000 giờ đồng hồ. Phương pháp chụp MRI tinh tế tại phòng nghiên cứu về não bộ tại Wisconsin đã cho thấy mức lạc quan siêu đẳng và hầu như không có chút cảm nhận tiêu cực nào của Ngài. Ngài nói: “Tôi không thấy mọi thứ đều màu hồng nhưng những thăng trầm của cuộc sống không trụ trong tôi theo cách của đời thường.”
19/10/2013(Xem: 12400)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
17/10/2013(Xem: 8287)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên và năm 1917 lúc Ngài 22 tuổi đã xuất gia tu học tại chùa Quang Lộc tỉnh Quảng Ngãi với Pháp Danh là Chơn Qúy. Ngài thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh thuộc thế hệ truyền thừa thứ 7. Ngài sinh năm 1895 và viên tịch năm 1961.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]