Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ai Thấy Pháp Người Ấy Thấy Phật, Ai Thấy Phật Người Ấy Thấy Pháp

31/10/201109:56(Xem: 19361)
Ai Thấy Pháp Người Ấy Thấy Phật, Ai Thấy Phật Người Ấy Thấy Pháp
Buddha_1


AI THẤY PHÁP NGƯỜI ẤY THẤY PHẬT,
AI THẤY PHẬT NGƯỜI ẤY THẤY PHÁP

Thích Hạnh Bình

Nội dung mà chúng tasẽ thảo luận trong bài viết ngắn này là “Ai thấy pháp là người ấy thấy Phật, aithấy Phật người ấy thấy pháp”. Thật ra chủ đề này không phải tác giả tự đặt màvốn là lời Phật dạy, được tìm thấy nhiều nơi trong kinh A hàm hay Nikaya.

Nguyên nhân đức Phậtnói bài pháp này, vì tôn giả Vakkali ở nhà thợ gốm, đang bị bịnh nặng, sắp lâmchung, nhưng lòng rất muốn diện kiến dung nhan đức Thế Tôn và đảnh lễ Ngài lầncuối trước khi nhắm mắt lìa đời, nhưng không thể nào đến nơi Thế Tôn ở được,cho nên Tôn giả Vakkali đã cho thị giả đến cung thỉnh đức Thế Tôn đến nơi mìnhở. Vì lòng từ mẫn đức Thế Tôn đã thân hành đến thăm Tỷ kheo Vakkali. Sau khiđến đức Thế Tôn hỏi:

-Này Vakkali, nếu ông không có gì trách mình về giới luật, vậy có gì phân vânhay hối hận không ?

-Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn, nhưng thân conkhông đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn..

-Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. NàyVakkali. Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp.[1].

Trênđây là đoạn đối thoại giữa Thế Tôn và Vakkali. Qua mẫu đối thoại này, nó gợi ýcho chúng ta hiểu rõ một vài vấn đề căn bản trong Phật pháp. Vấn đề trước tiênmà chúng ta cần xác định nơi đây là. Đức Phật và Tỷ kheo Vakkali đứng hai vịtrí khác nhau. Tỷ kheo Vakkali đứng từ góc độ tình cảm, có lòng kính ngưỡng,muốn đảnh lễ và tận mắt nhìn dung nhan đức Phật lần cuối trước khi nhắm mắt lìatrần. Thế nhưng, đức Thế Tôn không đứng từ góc độ tình cảm này, an ủi Vakkali.

Ngượclại Ngài đã đứng từ góc độ một vị Đạo sư đến thăm Vakkali lần cuối và giáo dụcVakkali nhận chân được chân lý để được giác ngộ và giải thoát, cho nên Ngài đãnói câu: ‘có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này’ .

Theotôi lời nói này có hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất mà Ngài muốn trao truyền chochúng ta là, Ngài là con người như bao nhiêu con người khác, do vậy thân thểcủa Ngài cũng giống như bao nhiêu thân thể khác, cũng cần có sự ăn uống ngủnghỉ, cũng có trạng thái bịnh hoạn ốm đau và bài tiết. Những chất được bài tiếtra mùi tanh hôi cũng giống như mọi người khác. Không nên có suy nghĩ ngây thơ chorằng, đức Phật không còn những hiện tượng này.

Nếuchúng ta có cho rằng, Phật và chúng sanh khác nhau, sự khác nhau đó cũng chỉ làsự khác biệt giữa nhận thức, tức là sự khác biệt giữa người đã giác ngộ(Buddha) và chưa giác ngộ. Người đã giác ngộ không còn những loại khổ về mặttâm lý, nhưng những loại khổ về mặt tự nhiên vẫn còn, như nóng lạnh, bịnhhoạn.v.v...

Cònngười chưa giác ngộ, có cả hai loại khổ tự nhiên của vật lý và tâm lý. Thật ranổi khổ lớn nhất của con người là nổi khổ về tâm lý, không phải vật lý. Thứhai, Ngài muốn nói rằng, Vakkali là người sống quá nặng nề về tình cảm, quá chútrọng về mặt hình thức bên ngoài của Như Lai, không thấy cái giá trị đích thựctừ bên trong mà Ngài đã chứng được dưới cội cây Bồ đề. Cái giá trị của đức ThếTôn là chân lý không phải là 32 tướng tốt hay 80 vẻ đẹp. Thế thì Vakkali muốndiện kiến cái thân tướng của Thế Tôn để làm gì? Có ích gì cho sự thuyên giảmcơn bịnh trầm trọng mà ông đang gánh chịu? Có giúp gì cho cái chết sắp cận kềmà Vakkali đang đối mặt ?

Trướcnổi đau khổ này, chỉ có giáo pháp mà Thế Tôn đã chứng mới có thể làm chấm dứthay tối thiểu cũng làm giảm bớt sự đau khổ của Vakkali, cái pháp đó, chân lý đóVakkali cần phải diện kiến thấy được trước khi qua đời, nếu không sống đời sốngxuất gia vô ích, không có lợi gì cho mình huống gì là làm lợi lạc chúng sinh.

Thếthì chân lý mà Ngài chứng được dưới cội cây Bồ đề là gì ? Đó là đạo lý duyênkhởi (pratiya-samutpada), nguyên lý vận hành của con người và vũ trụ, trên thếgian không có một vật, một người nào sinh tồn hay biến mất mà không theo nguyêntắc này. Đây chính là ý nghĩa mà đức Phật trình bày trong “Kinh Tạp A hàm” vớinội dung như sau:

“Phápduyên khởi chẳng phải do ta làm ra, chẳng phải do người khác làm ra. Dù Như Laicó xuất hiện hay không xuất hiện ở thế gian, pháp này vẫn tồn tại. Như Lai tựgiác ngộ pháp này, thành đẳng chánh giác...”[2]

Giáolý mà đức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đề là duyên khởi mà duyên khởi lànguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do đức Phật tự mình sáng tạo ra mànó là nguyên tắc vận hành của con người và vũ trụ, không có một cái gì mộtngười nào lại vận hành ngoài qui luật này, cho nên giáo lý duyên khởi được gọilà chân lý. Từ chân lý trong nhà Phật được mang ý nghĩa như vậy, không phải làlời nói hồ đồ, thiếu cơ sở.

Căncứ từ giáo lý duyên khởi này, đức Phật chỉ ra bản chất con người không có cáigì gọi là ngã (atmam) hay linh hồn trường cửu, các sự vật luôn luôn ở trongtrạng thái thay đổi chuyển dịch, sự chuyển dịch đó đức Phật gọi là vô thường(anitya), không có một pháp nào đứng yên cố định. Sắc đẹp, sự giàu sang, địavị.... dù chúng ta có cố giữ đến đâu, rồi cũng phải chịu đổi thay ở một lúc nàođó. Sự khác biệt giữa người trí và kẻ ngu chính là sự nhận thức đúng hay sai,có nghĩa là thái độ của chúng ta như thế nào về thực trạng này.

Ngườitrí chắc chắn không cưỡng ép làm một việc gì trái với qui luật, do vậy khi sựvật vô thường chuyển dịch, người trí không vì vậy mà sinh buồn rầu lo âu hay cóthái độ chống đối, chỉ có kẻ ngu mới muốn bắt sự vật đứng yên theo ý mình. Muốnmà không được là nguyên nhân sinh ra đau khổ.

Vìlòng thương chúng sanh trầm luân trong đau khổ, đức Phật tùy theo căn cơ vàtrình độ khác nhau của mỗi loại chúng sanh, dùng mọi phương tiện khác nhau chỉcho chúng sanh thấy được chân lý này, để họ được giác ngộ và giải thoát mà hìnhthành Tông phái, phân chia có Tiểu có Đại.

Từđiểm này nó gợi ý cho chúng ta hiểu, Pháp duyên khởi, vô thường, vô ngã là chânlý, những phương tiện hay những hình thức giáo dục khác nhau, nó không phải làchân lý, vì nó chỉ có giá trị, và phù họp với một đối tượng cụ thể và nhất địnhnào đó, không thể là cái chân lý chung cho mọi con người và mọi xã hội khácnhau, cho nên không được gọi là chân lý.

Ởđây tôi muốn mọi người nên chú ý một điều rằng, Lòng ngưỡng mộ đó rất tốt vàrất cần, nhưng chúng ta không nên lẫn lộn lòng ngưỡng mộ này đồng nghĩa sự hiểubiết về Phật pháp. Xuất phát từ lòng ngưỡng mộ tôn sùng đó, chúng ta đã phátngôn rất bừa bãi, đôi khi có thương tổn đến Phật pháp.

Vídụ chúng ta thường nói rằng, Phật pháp là chân lý, trong khi đó chúng ta giớithiệu một số quan điểm về Phật pháp, nó hoàn toàn không liên hệ có giá trị gìvới đời sống con người, đôi khi lại có hại cho cuộc sống. Trong khi đức Phật nổlực giới thiệu, làm cho con người thấy rõ được chân lý để được giác ngộ và giảithoát thì chúng ta làm ngược lại giới thiệu với con người xã hội với những quanđiểm mù mờ, đen tối, thiếu cơ sở, thiếu ánh sáng của khoa học.

Thếthì những quan điểm đó làm sao gọi là chân lý được? Có thể điều đó đúng và họplý cho một phần tử nào đó trong xã hội, nhưng không phải là tất cả, cho nênkhông thể gọi là chân lý. Đó chính là lý do tại sao đức Phật dạy: Tin ta màkhông hiểu ta là hủy báng ta. Hoạt động của khối óc và con tim là hai lãnh vựckhác nhau, cả hai đều cần cho sự sống của con người, nhưng không thể thay thếcho nhau.

Tráitim mà thay cho khối óc suy nghĩ sự việc thì cuộc đời sẽ xuất hiện biết bao sựlộn xộn và rối rắm; Khối óc mà thay thế cho trái tim làm việc thì cuộc sống củacon người chẳng khác nào như sinh hoạt của tòa án, cho nên chúng ta không nênlẫn lộn giữa khối óc và con tim. Theo tôi, nên sống với nhau bằng trái tim vànên làm việc bằng khối óc.

Quasự trình bày trên nó giúp chúng ta lý giải câu: Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta,Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp. Ở đây khái niệm Ta chỉ cho đức Phật, như vậycâu này được hiểu là Ai thấy pháp, người ấy thấy Phật; Ai thấy Phật, người ấythấy pháp. Pháp ở đây chỉ cho giáo pháp duyên khởi. Ai thấy được pháp duyênkhởi, người ấy cũng thấy được trạng thái vô thường, vô ngã của vạn vật và ngaycả bản thân mình.

Aiđã thấy được vô thường vô ngã thì người ấy không thể chấp: “Cái này là của tôilà tôi là tự ngã của tôi”, như vậy, được giác ngộ và giải thoát. Ở đây, kháiniệm giác ngộ và giải thoát là khái niệm mô tả về kết quả của sự thấy và biết,từ trong nhà Phật thường dùng là trí tuệ, chính là kết quả sự tu tập của đứcThế Tôn dưới cội cây Bồ đề. Sự giác ngộ này đã làm cho chính Ngài thoát khỏimọi sự ràng buột khổ đau, cho nên gọi là giải thoát. Bất cứ ai giác ngộ nhưNgài cũng sẽ có những sự giải thoát như Ngài không cao không thấp.

Đươngthời cũng đã có nhiều người của nhiều giai cấp khác nhau thực hành lời dạy củaNgài, cũng đã được giác ngộ giải thoát. Sau khi sống trong giáo pháp của Ngài,được giác ngộ giải thoát, họ mới cảm thấy rằng, sự khác biệt giữa đường lối tutập của đạo Phật và các tôn giáo truyền thống Ấn độ rất xa. Đức Phật thì khuyêncon người “Đến đạo Phật để thấy và biết, giải quyết khổ đau, chứ không phải đểtin” còn các tôn giáo khác thì đặt nặng niềm tin niệm chú và cầu nguyện.

Đóchính là lý do tại sao có nhiều người sau khi nghe đức Phật nói pháp bèn phátbiểu:

“Thậtvi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gìbị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạchướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày,giải thích.”[3]

Nhưvậy, điểm nổi bật của đức Phật Thích Ca Mâu Ni là sự giác ngộ giải thoát, khôngphải là 32 tướng tốt hay 80 vẻ đẹp, nguyên tắc để trở thành bậc giác ngộ giảithoát chính là thấy được pháp duyên khởi vô thường vô ngã. Như vậy, ai muốnthấy Phật thì người ấy phải thấy được pháp. Cũng vậy, ai đã thấy được phápduyên khởi vô thường vô ngã cũng có nghĩa là người ấy đã thấy Phật, vì kháiniệm Phật với khái niệm pháp chỉ cho người thấy chân lý và chân lý.

Nhưvậy, tỷ kheo Vakkali nếu muốn diện kiến đức Thế Tôn cần nên diện kiến sự giácngộ và giải thoát, nếu như Vakkali muốn tỏ lòng ngưỡng mộ đức Thế Tôn thìVakkali nên thực hành giáo pháp của Ngài, nếu như Vakkali muốn đoạn trừ nhữngnổi khổ đau cho mình thì Vakkali chính mình phải giác ngộ lý duyên khởi vôthường và vô ngã., còn nếu như Vakkali muốn hóa độ chúng sanh thì trước tiênVakkali phải giác ngộ chân lý. Đó là nội dung và ý nghĩa câu: “Ai thấy pháp,người ấy thấy Phật; Ai thấy Phật, người ấy thấy pháp” khi Ngài khuyên tỷ kheoVakkali lúc lâm bệnh.

Dẫurằng, đây là lời dạy của Thế Tôn cho Tỷ kheo Vakkali trong quá khứ. Tôi tinrằng, nội dung và ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị thiết thực cho Phật giáongày nay. Phải chăng chúng ta đang cố tô son phết vàng ca ngợi 32 tướng tốt củađức Phật nhưng chúng ta lại vô tình hay cố ý quên đi giáo pháp mà Ngài đã giácngộ ?

Phảichăng với lòng kính ngưỡng chúng ta dùng mọi lời tán dương, giới thiệu tínhsiêu việt của hệ thống triết lý nhà Phật, nhưng chúng ta quên rằng thế hệ tuổitrẻ ngày hôm nay là thế hệ được được trưởng thành trong xã hội tiến bộ về khoahọc kỷ thuật, và được đào tạo trong hệ thống giáo dục tiên tiến, có trình độchuyên môn cao, chúng sẽ khó chấp nhận những quan điểm mù mờ thiếu cơ sở khoahọc. Trong khi đó phần lớn của con người trong xã hội ngày nay, quan tâm đếnnhững vấn đề có liên quan đến con người và xã hội mà họ đang sinh tồn, khôngphải là những vấn đề mang tính triết lý siêu hình.

Tôitin rằng, giáo lý mà đức Phật giác ngộ là giáo lý cho con người, đối tượng màđức Phật giáo dục là con người. Dẫu rằng hệ thống giáo lý đó đề cập giải quyếtnhững vấn đề cụ thể trong quá khứ, đôi khi không còn phù họp cho con người vàxã hội ngày nay, nhưng ngang qua những hình thức giào dục đó, nó vẫn ẩn chứamột nguyên lý tinh thần giáo dục mà đức Phật muốn gởi cho các thế hệ sau khôngcùng xã hội và lãnh thổ. Nguyên lý đó, tinh thần đó có giá trị tuyệt đối, ápdụng cho mọi thời đại và con người.


[1]H.T Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt namẤn hành, năm 1993, trang 219.

[2]H.T Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A hàm” tập 1, Viện nghiên cứu Phậthọc Việt nam ấn hành 1993, trang 635.

[3]H.T Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện Nghiên cứu Việt nam Ấnhành, năm 1993, trang 219.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2021(Xem: 5594)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Để duy trì truyền thống An Cư Kiết Hạ hằng năm là truyền thống của Tăng đoàn tự ngàn xưa của đức Phật, mặc dù Ấn Độ đang trong tình trạng Dịch bịch nhưng chư Tăng các truyền thống vẫn câu hội về một trú xứ để tác pháp An Cư Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương ở xứ này, chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi cúng dường đến Đại Tăng với ước mong các ngài yên tâm An Cư tu tập trong hoàn cảnh thiếu thốn chung của nạn Dịch.
12/06/2021(Xem: 4233)
Ngay trước khi khởi đầu của thời gian, nữ thần Ticca dong chơi trong vườn và tạo ra những hình tượng bằng đất bùn. Cùng lúc đó lại trùng hợp với chuyện là bà mẹ của Ticca đang bận âm mưu cùng với các chị em của bà để chống lại gia đình chồng bà nên bà không nhận thấy rằng đứa con gái nhỏ của bà đã trở thành một người đàn bà trẻ có thể tạo ra được sự sống. Do sự lơ đễnh của bà mẹ cô, Ticca không hay biết rằng cô đã có được những quyền năng mới và những trách nhiệm trao phó vào tay người đàn bà.
12/06/2021(Xem: 3951)
Nữ diễn viên nhìn vào trong hồ nước và trông thấy một khuôn mặt tuyệt vời, hàm răng hoàn hảo và một thân hình xứng hợp. Cô hỏi: “Chao ơi, sao tôi lại không thành một tài tử?” Con nhái nói: “Tôi có thể làm cho cô thành minh tinh.” Cô diễn viên la lên: “Mi là ai vậy?”
12/06/2021(Xem: 4873)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ Ba (June 08) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Tikabigar và Kutitya Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 377 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 10 ký Gạo và bột Chapati, 1 bộ áo Sari, 2 ký đường, dầu ăn, bánh ngọt cho trẻ em và 100Rupees tiên mặt (Mỗi phần quà trị giá: 15usd.75cents >< 377 hộ = . Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
12/06/2021(Xem: 5351)
Bài này được viết để hồi hướng các thiện hạnh có được để nguyện xin bình an và giải thoát cho tất cả đồng bào nơi quê nhà, vá cho chúng sanh khắp ba cõi sáu đường. Trong bài là một số ghi chú trong khi đọc Kinh luận, không nhất thiết theo một thứ tự nào. Các đề tài phần lớn ít được nhắc tới, nhưng đa dạng, có thể là quan tâm của nhiều người, từ thắc mắc rằng có khi nào Đức Phật đã dạy về ăn chay, cho tới câu hỏi có cần tu đầy đủ tứ thiền bát định hay không, và vân vân. Nơi đây sẽ tránh các lý luận phức tạp, chủ yếu ghi các lời dạy thực dụng từ Kinh luận để tu tập. Bản thân người viết không có thẩm quyền nào, do vậy phần lớn sẽ là trích dẫn Kinh luận.
10/06/2021(Xem: 14903)
NGỎ Từ khi vào chùa với tuổi để chỏm, Bổn sư thế độ đã trao cho tôi bản kinh "Phật thuyết A-di-đà" bằng chữ Hán, bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập và dạy phải học thuộc lòng, rồi theo đại chúng đi thực tập tụng kinh vào mỗi buổi chiều. Học và tụng thuộc lòng ngâm nga vào mỗi buổi chiều, mà chẳng hiểu gì, nhưng tôi lại rất thích. Thích không phải vì hiểu mà thích là vì được tụng kinh, lời kinh của Phật. Thích không phải vì hiểu, mà thích vì niềm tin xuất gia của mình được đặt trọn vẹn vào thời kinh mình đang tụng ấy. Và mỗi khi tụng, lại thấy gốc rễ tâm linh của mình lớn lên. Nó lớn lên mỗi khi mình tụng và nó lớn lên mỗi ngày, đến nỗi thấy cái gì ở trong chùa cũng đẹp, cũng thánh thiện và thấy ai đến chùa cũng đều phát xuất từ tâm hồn thánh thiện.
09/06/2021(Xem: 5603)
Mới đó mà Ông ra đi đã 5 năm rồi! Tháng 5 lại trở về. Nhớ đến Ông tôi lại muốn viết mà có lẽ viết bao nhiêu cũng không đủ. Ông ra đi đã để lại một niềm xúc động trong trái tim tôi, và không chỉ riêng tôi mà còn biết bao người, bao gia đình đã được Ông cứu vớt từ con tàu CAP ANAMUR khi những con thuyền người Việt lênh đênh trên đường vượt biên ngày nào. Ông chính là đại ân nhân của gia đình tôi, vì nếu không có Ông, con tôi đã nằm trong bụng cá từ lâu rồi. Chính vì vậy, gia đình tôi vẫn nhớ ơn Ông đời đời và cũng thật bàng hoàng đau đớn lúc hay tin Ông đã lìa cõi trần. Bây giờ ngồi nhớ lại nỗi đau ấy vẫn còn như đâu đây.
09/06/2021(Xem: 5098)
Kể từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu nầy. Trong trang nghiêm kiếp của quá khứ, hiền kiếp của hiện tại, hay tinh tú kiếp của tương lai thì sự tu học của chư Tăng Ni và Phật tử vẫn là những điều kiện cần thiết để xiển dương giáo lý Phật đà. Nhằm tiếp nối tinh hoa tuệ giác siêu việt của chư Phật, chư Bồ tát, chư vị Tổ sư đã kinh qua trong suốt nhiều đời, nhiều kiếp mới có được sự kế tục đến ngày hôm nay. Nếu dùng thời gian hiện tại của kiếp nầy, kể từ thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giáng thế đến nay chỉ trên 2.500 năm, mà chúng ta đã có vô số văn kiện và dữ liệu để tham cứu học hỏi, tu niệm, và cần bàn đến. Gần gũi và trung thực nhất là hai bộ thánh điển Phật giáo của truyền thống Nam và Bắc truyền. Nếu căn cứ theo đó để nghiên cứu thì chúng ta sẽ có một đáp án tương đối chính xác để ghi nhận những giá trị về Văn hóa và Giáo dục xuyên qua nhiều tâm lực và nguyện lực của các bậc tiền nhân.
09/06/2021(Xem: 5939)
NHƯ LỜI GIỚI THIỆU CỦA ARTHUR Zajonc, cuộc gặp gỡ Tâm thức và Đời Sống lần thứ mười đã đưa chúng ta vào một hành trình dài, từ những thành phần đơn giản nhất của vật chất đến sự phức tạp của ý thức con người. Cuốn sách này theo dõi hành trình đó diễn ra trong suốt một tuần trong một căn phòng chật cứng tại tư dinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma trên ngưỡng cửa của dãy Himalaya. Làm thế nào để bắt đầu theo dõi quỹ đạo đầy tham vọng, dường như bao la này? Chúng ta sẽ bắt đầu với tuyên bố mờ đầu thuyết trình của Steven Chu, nhà vật lý đoạt giải Nobel: “Điều quan trọng nhất mà chúng ta biết là thế giới được tạo ra từ các nguyên tử. Đây là quan điểm mà hầu hết các nhà vật lý ngày nay, vào đầu thế kỷ XXI, đồng ý với quan điểm này ”.
09/06/2021(Xem: 6428)
Trong Phật bảo, pháp bảo và Tăng bảo, Chúng con quy y cho đến khi đạt đến giác ngộ. Qua công đức của thực hành sáu ba la mật, Nguyện cho chúng con thành tựu quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]