Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn pháp xây dựng đời sống tại gia hạnh phúc

18/10/201001:09(Xem: 7838)
Bốn pháp xây dựng đời sống tại gia hạnh phúc

lotus_5

Bốn pháp xây dựng 
đời sống tại gia hạnh phúc

HT. Thích Quang Đạo

Phật pháp dù cao siêu vi diệu nhưng liệu có ích lợi gì cho tuyệt đại đa số người đời vốn bị nhiều ràng buộc và chịu nhiều hệ lụy trong thế gian? Người thực hành theo giáo pháp của Phật có nhất thiết phải ẩn dật, ly gia cát ái? Thực ra, đạo Phật không tách rời thế gian, luôn gắn liền với cuộc đời, quan tâm đến việc xây dựng hạnh phúc cho con người. 
 
Kinh Tăng Chi Bộ III ghi: “Một hôm, cư sĩ tại gia đệ tử Phật tên là Dighajanu đi đến đỉnh lễ và bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, chúng con là những người gia chủ, còn hưởng thụ các dục, sống hệ phược với vợ con, dùng các thứ hương hoa, phấn sáp, thọ lãnh vàng bạc. Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy thuyết pháp cho những người như chúng con, thuyết như thế nào để những pháp ấy đem đến cho chúng con hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và hạnh phúc an lạc trong tương lai.

Đức Phật dạy Dighajanu rằng: “Này cư sĩ, có bốn pháp này đưa đến hạnh phúc hiện tại, an lạc hiện tại cho thiện nam tín nữ. Bốn pháp đó là: Đầy đủ sự tháo vát, đầy đủ sự phòng hộ, đầy đủ sự hướng thiện và đầy đủ sự thăng bằng”.

Thế nào là đầy đủ sự tháo vát?

Trước hết, người tại gia cư sĩ dù làm nghề nghiệp gì cũng phải lương thiện, siêng năng không biết mỏi mệt, biết suy tư, tìm ra phương thức làm việc tối ưu, vừa đủ để tự làm và điều khiển người khác làm. Đầy đủ sự tháo vát thể hiện tuệ giác, thông minh và năng động, biết tìm công việc thích ứng với bản thân, hoàn cảnh nhằm làm ra của cải để cung ứng cho bản thân, gia đình và xã hội. Nếu không siêng năng, tháo vát thì dễ bị lôi cuốn vào những việc bất chính để kiếm tiền, như vậy cuộc sống sẽ khó yên ổn.

Thế nào là đầy đủ sự phòng hộ?

Phòng hộ là giữ gìn. Những tài sản do tháo vát, siêng năng, nhờ lao động chơn chánh mà thu hoạch được phải khéo phòng hộ để khỏi bị vua chúa tịch thu, bị trộm cướp, bị lửa cháy, bị nước trôi và bị con hư phá tán.

Không phải ai có của cải cũng giữ được. Thiên tai, hỏa hoạn, mất mát do trộm cướp, sung công luôn rình rập để lấy đi tài sản của mình. Ngoài những nguy cơ tổn thất tài sản từ bên ngoài, bên trong còn bị con hư phá tán. Có nhiều nhà giàu có, vì nuông chìu con mà để chúng xài phí của cải không tiếc vào những cuộc cờ bạc rượu chè say sưa, nhất là nghiện ngập ma túy, ăn chơi đàng điếm v.v… không chỉ phá của, hại cho bản thân mà còn hại cho gia đình và xã hội. 
 
Bởi thế Phật dạy có tiền cần phải phòng hộ, nhất là đừng để lọt vào tay những đứa con hư, nghĩa là ngoài việc làm giàu, cần phải nên giáo dục con cho cẩn thận nữa.

Thế nào là đầy đủ sự hướng thiện?

Hướng thiện là làm bạn với người có đầy đủ lòng tin, giới đức, bố thí và trí tuệ. Đầy đủ lòng tin là những người chánh tín Tam bảo, ta làm bạn với họ để học tập lòng tin. Đầy đủ giới đức là người thọ trì và giữ gìn giới hạnh. Là Phật tử mà không giữ gìn giới hạnh, hành động tà vạy, không xứng đáng lời dạy của Đức Phật thì dù có xưng là Phật tử cũng không phải Phật tử.

Cho nên có đầy đủ giới đức mới xứng đáng là con Phật. Đầy đủ sự bố thí là người biết san sẻ vật chất, khả năng, công sức, hiểu biết, tình cảm, giáo lý, v.v… và tất cả những gì mình có cho người khác. Bố thí cao nhất là mở rộng tấm lòng, cho mà không chấp thủ, không vì mình. Nếu chỉ biết nhập mà không biết xuất thì người ấy là một người bỏn xẻn, ích kỷ. Xã hội mà gồm những người như vậy thì không hạnh phúc. Bố thí trước hết là dứt lòng tham, tính bỏn xẻn và ganh tỵ.

Bởi thế nên không phải chỉ có cho tiền của mới bố thí, mà hễ có thân, có tâm là có thể bố thí được. Chia sẻ gánh nặng cho một khách bộ hành đang lúc mệt mỏi cũng là bố thí. Nở một nụ cười để an ủi người đang đau khổ cũng là bố thí. Nếu trong tâm mọi người luôn luôn nghĩ đến bố thí, thì sự đua tranh, ganh tỵ sẽ giảm bớt rất nhiều. Đầy đủ trí tuệ là người có học và tư duy về Phật pháp và ứng dụng Chánh pháp vào trong đời sống, chuyển hóa đời sống phàm phu tội lỗi thành đời sống thánh thiện trong sạch.

Nếu Phật tử mà lấy tà làm chính, không phân biệt phải trái, hay dở thì không có trí tuệ và dễ trở thành mê tín dị đoan, tin theo thầy tà bạn ác. Do đó, Đức Phật dạy cho các Phật tử tại gia là phải luôn hướng thiện, làm bạn với thiện để được hạnh phúc trong hiện tại và tương lai.

Thế nào là đầy đủ sự thăng bằng?

Thăng bằng có nghĩa là sống một đời sống điều hòa, quân bình giữa tinh thần và vật chất, giữa tâm lý và sinh lý. Muốn vậy, người Phật tử phải áp dụng sáu nguyên tắc sống hòa hợp mà Đức Phật đã dạy:

Nguyên tắc thứ nhất: là sống chung hòa hợp, cung kính và tôn trọng lẫn nhau, dùng từ ái đối xử với nhau, tương thân tương ái.

Nguyên tắc thứ hai: là nói lời yêu thương, thuận hòa, không tranh đấu hơn thua, không xúc phạm, không gây tổn thương người khác.

Nguyên tắc thứ ba: là là ý nghĩ hòa hợp, không chống trái, không hơn thua, không thù hằn, oán ghét, tâm ý hòa đồng ái kính lẫn nhau.

Nguyên tắc thứ tư: là cùng nghiêm trì giới luật, thực hành chánh hạnh, ái kính nhau, cùng giúp đỡ nhau trong việc thực hành đạo đức.

Nguyên tắc thứ năm: là cùng nhau hướng đến chánh tri kiến, tuệ giải thoát. Chia sẻ những quan điểm, tư tưởng, nhận thức về Chánh pháp, không chống trái, bao dung những dị biệt trong lẽ phải.

Nguyên tắc thứ sáu: là của cải làm ra được chi dùng một cách thích hợp, đừng quá phung phí, mà cũng đừng quá keo kiết bỏn xẻn. Nếu chi tiêu quá phung phí thì dễ phá sản. Keo kiết bỏn xẻn quá thì bị nô lệ đồng tiền. Phải chi tiêu đúng việc, đúng chỗ. 
 
Đức Phật dạy: của cải làm ra 10 phần thì chi tiêu hàng ngày 5 phần, 3 phần tích lũy, 1 phần cho quan hệ với gia đình nội ngoại, 1 phần cho các mối quan hệ giao tế xã hội.

Tóm lại, Đức Phật dạy cho người tại gia bốn pháp an lạc trong hiện tại là: Tháo vát, phòng hộ của cải đã kiếm được bằng nghề chân chính, làm bạn với thiện và sống điều hòa thăng bằng. Thực tập đầy đủ những điều như vậy thì giờ phút nào, ở đâu, chúng ta cũng xứng đáng là Phật tử, không những đem lại lợi ích, an lạc và hạnh phúc cho chính mình mà còn cho nhiều người khác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/01/2021(Xem: 9175)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5507)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5138)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5735)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6239)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5258)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5011)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5035)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5459)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 4878)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]