Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lược Ý Hành Lễ "Nhất Bộ Nhất Bái" Trong Nghi Thức Triều Sơn Lễ Thánh Phật Giáo Bắc Truyền

04/07/201121:02(Xem: 7109)
Lược Ý Hành Lễ "Nhất Bộ Nhất Bái" Trong Nghi Thức Triều Sơn Lễ Thánh Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC Ý HÀNH LỄ "NHẤT BỘ NHẤT BÁI"
Trong Nghi Thức Triều Sơn Lễ Thánh Phật Giáo Bắc Truyền

Thích Tâm Mãn

lelayLễlạy, tham bái, chiêm lễ các thánh tích của các bậc Tiên Thánh là một tập tục truyền thống lâu đời của một trong những nghi thức hành trì trong Phật Giáo, có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tương truyền rằng trong văn hóa truyền thống cổ của người Ấn Độ có tập tục đi lễ lạy các thánh tích gọi là "Tuần lễ", chỉ cho việc đi về thánh tích của các bậc thánh nhân lễ lạy, để cầu nguyện và cũng là cảm niệm tưởng nhớ, đến hành trạng cũng như công đức của vị thánh, thần đó đã đem đến cho thế gian.

Phật Giáo từ khi Đức Thích Tôn vào vô dưNiết Bàn thì phong trào đến các thánh tích của Đức Phật để lễ lạy chiêmbái rất thịnh hành trong Phật Giáo đồ và dần dần trở thành một nghi thức quan trọng trong sinh hoạt tôn giáo của Phật Giáo, chính vì vậy thánh tích Tứ Động Tâm của Đức Phật trở thành nơi hướng về lễ bái cũng như hành hương của toàn thể tín chúng Phật Giáo trên toàn thế giới.

Tất cả những ai nếu là tín chúng của ĐạoPhật thì cũng đều chung có một tâm niệm, trong đời của mình nếu đầy đủ nhân duyên sẽ về đến thánh tích của Phật một lần để lễ lạy, chiêm ngưỡng, để thỏa nguyện được tình cảm của một người con xa cha mẹ đã lâu muốn có một lần hội ngộ, và đó là một trong những nguyên nhân chính để nghi thức triều sơn lễ thánh trong suốt hơn 2000 năm hình thành phát triển, cũng như có sức sống mãnh liệt trong Phật Giáo nói chung và Phật Giáo Bắc Truyền nói riêng.

Phật Giáo đông truyền, các vị Tăng và Phật tử của miền Đông Độ, đối với nguyện vọng về đất Phật chiêm lễ thánhtích lại càng nồng nhiệt và tha thiết hơn, cũng chính vì nguyện vọng này cho nên những vị thánh Tăng phát tâm đến miền thánh tích Tây Thiên của Phật Giáo Bắc Truyền ra đời, Trung Quốc có ngài Nghĩa Tịnh và Ngài Huyền Trang.v.v...

Việt Nam ta từ rất sớm cũng đã có rất nhiều vị thánh Tăng cũng đi về thiên trúc hành lễ thánh tích, theo sách Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện của Ngài nghĩa Tịnh đời nhà Đườngcó chép: "... ở Giao Châu (Việt Nam) cũng có các vị Pháp sư qua Tây Vực, như ngài Vận Kỳ Pháp sư, Ngài Mộc Xoa Đề Bà Pháp Sư, Ngài Khuy XungPháp Sư, Ngài Huệ Diễm Pháp sư... là những vị sư người Giao Châu đi đếnTây Vực cầu Pháp..." Và thời hiện đại Hòa Thượng Thích Minh Châu, Hòa Thượng Thích Thiện Châu..v.v... là những bậc Danh Tăng của Việt Nam đi cầu Pháp cũng như lễ bái thánh tích nổi tiếng của Phật Giáo Việt Nam đương đại.

Sách Thông Tục Biên Thần Quỷ chorằng tục triều sơn lễ thánh có ở Đông độ vào thời kỳ nhà Tây Hán, trongsách có đoạn chép: "Người ngày xưa rất ít khi đi ra khỏi nhà, nay nhữngngười giàu có, muốn đến các nơi danh sơn thắng tích để kỳ đảo...theo những nguyên nhân trên, ngày xưa đi đến một danh sơn thắng tích xa sôi nào đó để dâng hương kỳ đảo, nay gọi là triều sơn vậy, theo đây cho thấytục triều sơn có vào thời Tây Hán."

lay5

Thời kỳ Tây Hán Phật Giáo bắt đầu truyềnvào Đông độ, dần dần thịnh hành và được giai cấp thống trị cũng như quýtộc ở Đông độ tiếp nhận và phát triển. Đến thời nhà Đường Phật Giáo BắcTruyền đã đạt đến thời cực thạnh, thời kỳ này sự hưng thạnh của tư tưởng cũng như triết lý sống Thiền tông, làm cho tư tưởng cũng như đời sống hành đạo của Tăng sĩ Phật Giáo Bắc Truyền có sự thay đổi mạnh mẽ.

Phong trào đi Tây Vực để triều bái thánhtích của Phật Giáo đồ cũng có sự thay đổi rõ rệt, thay vì phải đi đến Tây Thiên họ bắt đầu triều bái lễ lại các danh sơn đạo tràng của các vị đại Bồ tát ứng thân hiện tướng ở Đông độ. Trong sách Đại Phật Tự của Trịnh Chấn Phongchép về không khí triều sơn lễ thánh ở Đông Độ như: "...quảy túi màu vàng đi triều sơn, người ốm yếu, già cả, phụ nữ, đến những thiếu nữ yểu điệu, những bác nông dân chất phát, ai nấy đều kiền thành mỗi bước mỗi cúi đầu, thậm chí có người mỗi bước một lạy, cứ như thế lạy đến đỉnh núi..."

Theo tư tưởng và quan niệm của Thiền Tông, Tâm tức là Phật, cần gì phải đi cầu Phật ở bên ngoài, Linh Sơn có đâu xa, chỉ trong tâm mà thôi, cho nên Thiền gia có câu "Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu, nhơn nhơn hữu cá Linh Sơn Tháp, hảo hướng Linh Sơn Tháp hảo tu.", tạm dịch '' Cần gì phải đến cầu Phật ở Linh Sơn, Linh sơn ở trong tâm các vị, trong tất cả các vị đều có tháp Linh sơn, nên hướng về tháp Linh Sơn để tu.

Những đạo tràng nổi tiếng nhất Đông độ, được tín đồ hành hương lễ bái thạnh nhất là Tứ Đại danh sơn, Đạo tràng của bốn Vị Bồ Tát là Ngũ Đài Sơn của Bồ Tát Văn Thù, Nga Mi Sơn của Bồ Tát Phổ Hiền, Phổ Đà Sơn của Bồ Tát Quán Thế Âm, Cửu Hoa Sơn của Bồ Tát Địa Tạng. Trong sách Hoa Nguyệt Hận hồi thứ 8chép: "...Tâm ấn phát nguyện triều sơn, đi thuyền từ Phổ Đà lên đến bờ, rồi từng bước đi đến Nga Mi, năm trước đã lễ qua Ngũ Đài.."

Triều sơn lễ lạy cầu nguyện chư vị Bồ Tát gia hộ, và học theo hạnh nguyện và đức lực tu hành của các Ngài là tâm điểm của tất cả các hành giả thực hành pháp triều sơn lễ thánh, trong đó lấy sự chí thành, kham nhẫn và nhất tâm cầu nguyện làm tông chỉ. Trong Khổ Hạnh Tấn Hương có chép: Ngày xưa người tín đồ khi triều sơn lễ bái tấn hương, trước tiên phải thực hành việc tựmình chế ngự chính mình, không để cho những cảm giác của vật chất, cũngnhư giác quan của mình, khiêu dậy những ham muốn tầm thường, kham nhẫn chịu đựng trước mọi khó khăn thử thách của thời tiết cũng như hoàn cảnh,thực hành pháp tự mình rèn luyện và mài dủa chính mình và nhất tâm kiềnthành cầu nguyện, để cầu được sự chứng minh và gia hộ của chư vị Phật Thánh. Theo truyền thống triều sơn lễ thánh của Phật Giáo Bắc Truyền có 2nghi thức: 1. Lễ lạy tấn hương, 2. Xã thân lao xuống vực.

Lễ lạy tấn hương hay còn gọi là khấu đầutriều thánh, những hành giả phát nguyện triều sơn lễ thánh, tức là từ nơi trụ xứ của mình hướng về địa điểm của mình phát nguyện đãnh lễ, có hai cách triều sơn lễ thánh, 1 là bước một bước lạy một lạy, 2 là bước ba bước lạy một lạy, cứ như thế lạy chừng nào cho đến địa điểm muốn đến mà thôi.

Tăng Già Phật Giáo Bắc Truyền ở Trung Quốc, lịch đại chư hành giả tu pháp triều sơn lễ thánh nhiều vô số kể đời nào cũng có, còn ở Tây Tạng thì hầu hết các môn đồ của Phật Giáo không kể xuất gia hay tại gia, trong cuộc đời của họ có ít nhất là một lần tam bộ nhất bái hoặc nhất bộ nhất bái, lạy từ trụ xứ của mình là người xuất gia, còn người tại gia thì từ nhà của mình hoặc là quê hương của mình thực hành triều sơn lễ thánh về cung Botala Phổ Đà Lạc Già nơi họ cho là đạo tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm.

lay2

Người dân Tây Tạng đảnh lễ nhất bộ nhất bái quanh cung điện Botala. Ảnh: M.H

Thời cận hiện đại ngôi sao bắc đẩu của thiền lâmTrung Hoa là Ngài Hư Vân Đại Hòa Thượng vì muốn báo đáp thâm ândưỡng dục của cha mẹ, theo lời Phật dạy trong Kinh Điển Đại Thừa, phát nguyện triều sơn lễ thánh để đền đáp thâm ân, Ngài phát nguyện lễ "Tam bộ nhất bái" ba bước lạy một lạy, từ Phổ Đà Sơn đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ Tát lạy đến Ngũ Đại Sơn đạo tràng của Văn Thù Bồ Tát, lạy đến ba năm mới đến Ngũ Đài.

Pháp môn triều sơn lễ thánh trong hành trì của Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam cũng có một vị trí hết sức quan trọng, nhưng cách thức cũng như danh xưng thì có khác, ở nước ta triều sơn lễ thánh gọi là đi trẫy hội, đi hội, Phật Giáo Việt Nam có cội nguồnđược truyền trực tiếp từ Tây Thiên, cho nên những tập tục Phật Giáo từ Tây thiên do các Phạm Tăng đem đến vẫn còn được gìn giữ cho đên ngày hômnay, và điển hình rõ nét nhất là cách đi đến đền chùa danh sơn thánh tích trẫy hội lễ bái của người Việt, nếu đem so sánh với các không khí lễ hội tuần lễ thánh tích của các tôn giáo Ấn Độ thì ta thấy trong đó córất nhiều nét tương đồng về cách thức cũng như ý nghĩa.

Lễ bái trẫy hội vào dịp đầu xuân, cũng như các ngày lễ kỷ niệm của các bậc tiên thánh, những thánh địa của PhậtGiáo Việt Nam như chùa Hương Đạo, tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm, núi YênTử Đạo tràng của Trúc Lâm Tam Tổ, chùa Thầy, Chùa Keo, Chùa Dâu.v.v... tràn ngập không khí lễ hội, nhìn như một biển người, qua đó cho ta thấy được giá trị của pháp môn và tín ngưỡng triều sơn lễ thánh và vị trí củapháp môn trong sinh hoạt tín ngưỡng của Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam.

Truyền thống triều sơn lễ thánh trong Phật Giáo Bắc truyền tại Việt Nam cũng rất thịnh hành, và không khí nô nức nhộn nhịp, kính thành cũng không thua kém gì ở Trung Quốc, cho đến trong ca dao tục ngữ của người Việt có những câu liên quan đến triều sơnlễ thánh như: "Nào ai quyết chí tu hành, chưa về Yên Tử chưa đành lòng tu." hay câu: " Dù ai đi đâu về đâu, hễ trông thấy tháp Chùa Dâu thì về.Dù ai buôn bán trăm bề, nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu" và câu: " Gáichưa chồng trông hang Cắt Cớ, Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy".

Pháp môn lễ lạy Tấn hương hay còn gọi làkhấu đầu triều thánh, ở Việt Nam không được thịnh hành, và cũng rất ít những tài liệu nhắc đến các vị Tăng Việt Nam hành trì Pháp môn này. Trong hành trì của Phật Giáo Bắc Truyền ở Việt Nam cũng rất ít tài liệu đề cập đến nghi thức khấu đầu Triều sơn, đại đa số người Việt Nam biết đến danh từ "nhất bộ nhất bái" hoặc "tam bộ nhất bái" được truyền tụng qua các tích tuồng như "Tiết Đinh Sang Cầu Phàn Lê Huê" hoặc qua các tiểu thuyết giả sử của Trung Hoa như "Tiết Nhơn Quý Chinh Đông" hay "Tiết Đinh Sang Chinh Tây"..v.v...

Phật Giáo Bắc Truyền Việt Nam thời hiện đại mới bắt đầu có những hành giả thực hành Pháp khấu đầu triều sơn lễ thánh, ví dụ như Ni chúng chùa Hương Sơn, thôn Vạn Hạnh thực hành lễ nhất bộ nhất bái lên chùa núi Thị Vãi và gần đây nhất là sự phát nguyện vô cùng thù thắng Đại Đức Thích Tâm Mẫn chùa Hoằng Pháp lễ nhất bộ nhất từ chùa Hoằng Pháp T.p Hồ Chí Minh, triều sơn lễ thánh đến núi Yên Tử Quảng Ninh đạo tràng của Trúc Lâm Tam Tổ, cái nôi của Thiền Phái Việt Nam, đây là một nghi thức triều Tổ thù thắng nhất của Tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam, một sự kiện chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Nước Việt.

lay1

Đại Đức Thích Tâm Mẫn tam bộ nhất bái triều sơn lễ Tổ Trúc Lâm Yên Tử

Với một tâm niệm của người xuất gia "Thượng Báo Tứ Trọng Ân, Hạ Tế Tam Đồ Khổ" hạnh nguyện của Đại Đức thể hiện tấm lòng của người con phương nam luôn vọng về Tổ tông xứ Bắc, việclàm của Đại Đức thể hiện ý chí kiên cường và tâm kham nhẫn của Dân Tộc Việt nói chung, của người tu sĩ Phật Giáo nói riêng. Đại Đức là người thể hiện trọn vẹn tín tâm đối với Phật Pháp Tăng không gì lay chuyển nổicủa tất cả những người con Phật, sự thể hiện này là sự chứng minh thiếtthực nhất cho dòng máu của Phật Giáo luôn luôn dâng trào trong thân thểcủa Dân Tộc Việt Nam.

Cổ Đức dạy : "Do lễ bái hình tướng của sông núi, để cầu đắc thực thể vô hình vô tướng của sông núi, đạt đến vô ngại đại bi, lòng từ không còn chướng ngại nữa." hay năng nhẫn tất cả những điều khó nhẫn như “Chúng sanh Nhẫn”, "Pháp Nhẫn", "Vô Sanh Pháp Nhẫn", "Tịch Diệt Nhẫn" trong nhẫn pháp sanh định lực, nếu như trong cảnh nghiệm được tâm, trong khổ đắc được an lạc giác ngộ thì đạt được tông chỉ tu hành của pháp môn " khấu đầu triều sơn lễ thánh" vậy.

Lại nữa: "lễ lạy triều sơn, tiêu hết mộtphần tập khí, thì giảm hết một phần phiền não, được một phần quang minh, đồng thời cũng chứng được vi diệu bồ đề". Triều sơn lễ bái hàng phục ngã mạn của chính mình, thân hành lễ bái, khẩu tụng niệm danh hiệu của Phật, ý thành tâm sám hối, tam nghiệp thanh tịnh, vì công đức này nghiệp chướng tiêu trừ, tăng trưởng phước huệ, trong thời gian lễ lạy triều sơn, rèn luyện ý chí, thành tựu Bi, Trí, Hạnh, Nguyện, bồi dưỡng ýchí chịu đựng kham nhẫn, đầy đủ năng lực tiến tu Bồ Tát lục ba la mật, thành tựu đại bồ đề đây là công đức và lợi ích của pháp Triều Sơn lễ Thánh vậy.

Người hành trì pháp triều sơn lễ thánh nên dùng tâm nguyện cảm ân để triều sơn: Đối với ân đức của chư Phật, BồTát, Hiền Thánh Tăng, từ nội tâm phát tâm nhớ niệm thâm ân trọng đức, có như vậy chúng ta mới thể hội hết công ơn to lớn vĩ đại của Tam Bảo, và cũng từ sự biết ơn này, mà phát nguyện hơn nữa trong sự nghiệp hóa độchúng sanh, kế tục khai sáng hơn nữa sự nghiệp chấn hưng ngôi nhà Phật pháp.

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải có tâm niệm tàm quý vì: "Phật tại thế thời con trầm luân, nayđược nhơn thân thì Phật diệt độ, buồn biết thân mình nhiều nghiệp chướng, ra đời không thấy được kim thân", từ tâm niệm tàm quý phát tâm sám hối, tự thân mình từ vô thủy cho đến ngày nay phiền não nghiệp chướng thâm trọng, không được chánh thời nghe Phật thuyết pháp, không được sanh vào thời Phật còn tại thế, lặng hụp đắm chìm trong biển khổ sanh tử, nay phát nguyện đi một bước lạy hồng danh Phật lạy một lạy để sám hối nghiệp chướng của chính mình.

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải có tâm niệm cung kính: Tâm niệm cung kính đối với một người phát tâm học Phật không thể thiếu được, vì muốn được Phật Pháp thì tất cả đều phải dùng tâm cung kính cầu thỉnh mới có thể có được, chúng ta phát tâm triều sơn lễ thánh tức là tâm lễ kính chư Phật, thân cận thiện tri thức, vì vậy nếu không có tâm cung kính thì khó có thể thành tựu được.

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải phát đại tín tâm vì: "Tín tâm là mẹ là nguồn gốc thành tựu các công đức", tín tâm là tâm niệm căn bản, điều kiện quan trọng nhất của người học Phật, chúng ta phải kiên định tín tâm của mình đối với chân đế của Tam Bảo, phước đức trí tuệ của chư Phật, nếu như niềm tin kiên định như vậy thì chúng ta mới có đủ nghị lực để vượt qua mọi khó khăn thử thách vô cùng gian khổ trên hành trình triều sơn lễ thánh.

lay

Người Tây Tạng đảnh lễ trước chùa Đại Chiêu - Tây Tạng. Ảnh: M.H

Người hành trì pháp môn triều sơn lễ thánh phải phát Bồ đề tâm. Đây là tâm cốt lỏi để cầu đắc được đạo vô thượng bồ đề, nếu không phát bồ đề tâm thì không thể thành Phật đạo, vì có phát tâm bồ đề nên chúng ta cũng cần phát tâm trường viễn, truy cầu Phật đạo vĩnh viễn không thối chuyển, trong hành trình triều sơn một bước một lạy, khiến cho chúng ta có cảm nhận sâu sắc và thấm thía hơn nữa công hạnh vĩ đại của Chư Phật, Bồ Tát và cũng từ tâm niệm này mà phát khởi tâm vô thượng đạo.

Pháp môn triều sơn lễ thánh của Phật Giáo Bắc Truyền là một phương pháp tu học vô cùng thậm thâm và vi diệu nếu như ai không đủ những tâm niệm như trên muốn hành trì pháp môn này thì thật không thể thành tựu được, nên tất cả những vị hành trì pháp mônnày đều là những vị đại sĩ của Phật Giáo khiến cho chúng ta phải kính phục và đảnh lễ học hỏi. Nhất Tâm đảnh lễ quá khứ hiện tại vị lai chư vịĐại sĩ triều sơn lễ thánh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2020(Xem: 6639)
Tản mạn : Làm sao Chuyển hoá khổ đau ? "Khổ đau chỉ đến khi ta khởi lên ý niệm đó mà thôi ! " Nếu ai đó đã từng học được điều này thì mời các bạn cùng tôi ngâm vài vần thơ trước khi vào đề tài rất hữu ích cho thời đại công nghệ này bạn nhé ! Nhất là giới trẻ và trung niên ngày nay dù có học Phật Pháp hay đang nghiên cứu vài sách về tâm lý . Làm thế nào khổ đau được chuyển hoá ? Không lạm bàn nạn dịch với thiên tai Thẩm sâu nội tâm ... rơi lệ , thở dài Chuyện uất ức, bất mãn, thành công thất bại ! Suy cho kỹ ... Tâm phan duyên, hoang dại ! Khổ đau chỉ đến ... ý niệm khởi đó thôi Tự mình tiêu cực, sao lại phải Tôi!!! Nào tản mạn ... nuôi dưỡng được tâm thái tích cực !!! ( thơ Huệ Hương )
17/11/2020(Xem: 8028)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
17/11/2020(Xem: 5790)
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
16/11/2020(Xem: 4805)
Vào ngày 8 tháng 11 vừa qua, Hội đồng Thống nhất Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo Bangldesh (Bangladesh Hindu Bouddha Christian Oikya Parishad; BHBCOP), đã tổ chức một chương trình tập hợp và biểu tình hàng loạt trên toàn quốc để phản đối các cuộc tấn công, đốt phá, tra tấn và giết hại người tôn giáo thiểu số tại Bangldesh. Là một phần của cuộc biểu tình, họ đã thành lập các chuỗi người và các cuộc biểu tình từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa tại các giao lộ chính của các trụ sở cơ quan chính quyền cấp quận, huyện, thành phố và tỉnh trên khắp đất nước, bao gồm cả giao lộ Shahbagh, Dhaka và giao lộ ngã tư New Market, Chittagong.
16/11/2020(Xem: 5477)
Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào để việc phân tích không trở thành một bài học thuộc lòng như vẹt mà phải là sống động. Khi chúng ta tìm kiếm cho một “cái tôi” tồn tại cụ thể như vậy mà không thể tìm kiếm được nó hoặc là cùng giống hay khác biệt với tâm thức và thân thể, điều thiết yếu là phải tìm kiếm cùng khắp; bằng khác đi chúng ta sẽ không cảm thấy tác động của việc không tìm thấy nó. Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã viết:
15/11/2020(Xem: 6064)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc. Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddh
14/11/2020(Xem: 6462)
Kính mạn phép được thay đổi lại lời của một bài hát mà âm điệu đã thấm sâu vào huyết quản tôi từ bao giờ và hôm nay một lần nữa lại vang vang ...nửa như kích thích sự hưng phấn trong tôi nửa như khuyến khích tôi phải trình bày vì sao tôi thấy ra được điều này " Một niềm an vui hạnh phúc hỷ lạc thật sự có mặt và có thật trong mỗi con người chúng ta "
13/11/2020(Xem: 5166)
Từ khi có Lục tổ Huệ Năng đưa ra lý thuyết chúng sanh có sẳn Tánh Giác gọi là Phật Tánh trong người nhưng vì bị Ý thức che mờ đi nên cần ngồi thiền vén lớp ý thức này ra thì Phật tánh sẽ hiện ra thành Phật nên không cần kinh luật bất lập văn tự mà tu. Rất nhiều người bình dân phương nam đi theo một thời đông đảo. Câu hỏi được đặt ra là tánh giác này có trước hay sau ý thức? Thế nên mới đưa ra kế tiếp là giác ngộ rồi mới khởi tu tức là học kinh Phật. Vì Giác ngộ đến Giải thoát sinh tử là một chặng đường rất dài có khi rất nhiều kiếp cần trãi nghiệm. Vậy chúng ta nghiên cứu giác ngộ trước.
13/11/2020(Xem: 4816)
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
13/11/2020(Xem: 4760)
Phương tây từ thế kỷ thứ 18 đã từng phát huy cái ngã cái tôi của con người như “tôi suy tư là tôi hiện hữu”. Từ đó đến nay người Phuơng tây phát triển cái tôi, đưa đến tôn trọng cái tính riêng biệt cũa cái tôi từ triết lý đến luật pháp. Nhưng đạo phật lại diệt ngã thì làm sao mà hoằng pháp cho người Phương tây tu theo phật được? Làm sao giải thích được ý nghĩa diệt ngã của đức Phật? Vậy ta có thể giải thích là không phải ngã? Khi người ngồi thiền định dưới cội bồ đề 49 ngày, người đạt giác ngộ và đập tay xuống đất mà nói ta đạt được chánh đẵng chánh giác do trời chứng , ta chứng và đất chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]