Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Với Hòa Giải

06/01/201104:06(Xem: 9563)
Phật Giáo Với Hòa Giải

PHẬT GIÁO VỚI HÒA GIẢI
Nguyễn Hoàng Đức

Nhiều chuyên gia Âu Mỹ cho rằng: Phật tử cũng như người Ấn Độ rất hiền hậu, không thích gây hấn, và rất dễ chung sống hòa bình với người khác.

Nhìn Đạo Phật, thấy luôn, đó là những người mang tính hòa giải rất cao. Phật tử không chỉ hòa giải với người khác mà họ còn hòa giải với từng con vật bé nhỏ. Họ không sát sinh, như thể sợ rằng, mình ăn thịt chúng, rồi không thoát được kiếp luân hồi sinh tử, đến một ngày nào lại phải trở thành một con vật nào đó, để cho con vật đã từng bị mình ăn thịt ăn lại.

Tư tưởng từ bi của Phật giáo còn thấm nhiễm sâu nặng trong đời sống của người Việt. Ở nhiều nơi, khi giết thịt một con gà hay con chó chẳng hạn, người ta bèn nói “hóa kiếp này mày sang kiếp khác”. Câu nói đó thể hiện sự áy náy của người ta rằng: ta không muốn giết thịt mày đâu, ta chỉ mở một cung đường mới cho mày đi trên vòng luân hồi, hoặc giúp mày hóa kiếp mà thôi.

Rất nhiều khách đến Ấn Độ, ngạc nhiên rằng, người ta chìa tay xin khách từng đồng xu lẻ, được rồi, lại cầm tiền mua ngay một miếng bánh mỳ, đem sang bãi cỏ vườn hoa cho con bò ăn.

Ở đời, khi gặp bệnh người ta mới chữa, đó là phương pháp trị liệu. Nhưng có rất nhiều căn bệnh quái ác như ung thư chẳng hạn, nhiều khi bắt bệnh và chữa quá muộn thì không tránh khỏi hậu quả xấu.

Trong hòa giải cũng vậy, có những cặp vợ chồng khi hòa giải thì chồng bát đã vỡ. Còn trên chiến trường thì, một cuộc chiến dừng lại quá muộn, đã khiến cho kẻ thua thì vong thân, kẻ thắng thì tổn thất nặng nề “sống cũng như chết”. Lão Tử nói: “Mọi người đều biết đề phòng hậu họa, nhưng không biết làm cho hậu họa đừng sinh ra”.

Có thể nói, Phật giáo là những người muốn đề phòng hậu họa ngay từ chân móng của duyên khởi, hơn thế còn tìm cách không để cái duyên phải đi hòa giải nảy sinh. Phật giáo có phương ngôn: xa rời tham – sân – si.

-Tham(tham lam): Ở đời mọi tranh giành, đấu đá, giết chóc đều khởi lên từ tham lam. Người Trung Quốc có câu: “Cùng nỗi lo thì người ta dựa cậy nhau, nhưng cùng mối lợi, người ta cắn xé nhau”.

Người Việt đã lột tả dục vọng này qua cụm từ “chó tranh xương”. Những con vật đang chơi vui vẻ, bỗng ai đó ném cho khúc xương, thế là chúng cắn xé tranh giành nhau.

Tham quyền, khiến người ta giành giật, hất cẳng, thậm chí dùng thủ đoạn xảo quyệt triệt tiêu nhau. Tham tiền, khiến người ta giả dối, làm hàng giả, cân điêu, gian dối, mua rẻ bán đắt, rồi kéo hội kéo bè thanh toán nhau. Tham sắc dục, khiến người ta có thể dùng dao, a xít, súng đạn tranh giành, đâm chém lẫn nhau vì ghen tuông, đến mức văn hào Shakespeare đã phải la lên “phần lớn bi kịch của nhân loại diễn ra trên giường ngủ”.

-Sân(nóng giận): Người Việt nói “no mất ngon, giận mất khôn”. Một khi đã mất khôn, con người cư xử như mang bản năng bạo lực của muông thú, một câu, một chữ cũng chẳng nhường, họ lăn vào tranh giành đấu đá lẫn nhau.

Người Trung Quốc có câu “quân tử đấu khẩu, tiểu nhân đấu nhau chân tay”. Người có học hay danh dự, một khi đã đánh mất sự kiểm soat của bản thân, liền cư xử như kẻ võ biền. Còn người chỉ sống bằng cơ bắp lại càng thể hiện bản năng bạo lực mạnh hơn. Dầu đổ thêm vào lửa, càng đẩy người ta vào thảm kịch. Nóng giận là cây cầu bắc vào tất cả các cuộc cãi cọ hay tranh chiến của thế giới này.

-Si(si mê): Người phương Tây có câu “Hãy yêu như điên nhưng đừng yêu như một thằng điên”. Điên tức là đã đánh mất lý trí. Điên vì say mê cờ bạc, cay cú sát phạt , rồi đâm chém nhau. Điên vì ma túy thì vong thân, mất danh dự, điên vì rượu thì say sỉn, đòi đánh nhau. Điên vì tình thì thế giới đã từng chứng kiến biết bao bi kịch.

Nào Trụ Vương say nàng Tô Đắc Kỷ đã đẩy cả nước Trung Quốc thời xa xưa vào các cuộc binh đao khói lửa, rồi chính mình phải bước lên giàn thiêu. Hay như Paris cuỗm đi nàng Hê-len của Hy Lạp, mà đẩy cả thành Tơ-roa và cuộc chiến thảm khốc chín năm dòng. Rút cục thành bị san phẳng. Còn những người Hy Lạp chiến thắng trở về thì bị vong thân.

Đạo Phật rất đề cao nguyên lý Nhân -Quả. Vì thế, Đức Phật cho rằng, muốn sống hòa bình với nhau, người ta phải tiêu diệt ngay từ trong trứng dục vọng tham – sân – si, là gốc khởi lên tranh giành mâu thuẫn. Đức Phật còn dạy về nhân ngắn – quả ngắn, nhân dài – quả dài, nghĩa là dù bất cứ lúc nào, bất cứ đâu, khi người ta làm gì thì đều gieo nguyên nhân, hay khởi duyên nào đấy để chính nó sau này sẽ lớn lên thành kết quả, dành cho người đã gieo. Vì thế dù làm gì người ta không nên gieo nhân xấu để gặp quả xấu, mà nên gieo nhân tôt để hái quả tôt lành.

Người ta nên gieo nhân lành hái quả thiện. Bởi vì thiện giả thiện lai. Chớ nên gieo nhân xấu hái quả ác, vì ác giả ác báo. Người Trung Quốc có phương ngôn mô tả nguyên lý nhân quả như: “Giúp người nấu cơm thì được ăn, giúp người đánh nhau thì chảy máu”. Vậy đó người ta nên giúp người tốt làm việc thiện để gặp sự tôt đẹp , chớ nên giúp kẻ xấu làm việc ác mà mang họa vào thân.

Cao hơn thế Ngài chỉ dẫn sống theo Tứ diệu đế.

1-Khổ đế: Nhận thức được nỗi khổ luân hồi của kiếp người.
2-Tập đế: Luyện tập việc tiêu trừ các dục vọng tham sân si.
3-Diệt đế: Tiêu trừ triệt để hơn những dục vọng đó.
4-Đạo đế: Duy trì khổ luyện để biến con đường tu trì thành chân lý của đạo, diệt khổ, cứu khổ, cứu nạn cho mình và mọi chúng sinh.

Đạo Phật có hai nhánh chính: Tiểu thừa và Đại Thừa. Tiểu thừa nhắm đến Tự Giác ngộ. Đại thừa nhắm đến Giác Tha. Nghĩa là sau khi đã tự giác ngộ mình, người ta phải tiến đến giác ngộ cho người khác.

Ngay từ điểm khởi đầu, Đạo Phật đã tiến hành hòa giải với bản thân mình. Đức Phật kêu gọi không sát sinh hãy ăn chay, điều đó không chỉ là cách hòa giải với vạn vật, mà khởi từ mình đi, con người không ăn những đồ có nhiều chất đạm để có thể đốt lên ngọn lửa mạnh mẽ của dục vọng, con người ăn rau có, giống những con vật ăn rau cỏ thường hiền lành hơn những con vật ăn thịt.

Sau khi tự hòa giải với mình, nghĩa làm dịu lắng, bình an dục vọng của mình, con người mới có thể tiến hành hòa giải với người khác. Đó, theo tôi có lẽ là một trong những thông điệp vĩ đại của Phật giáo.

Có một phương ngôn triết học nổi tiếng là “Sống là sống với“. Quả vậy, không ai sống được một mình, mà người ta phải sống với, sống lẫn, sống trong với người khác và vạn vật. Vậy thì Phật giáo với phương châm hòa giải từ mình, tiến đến hòa giải với người khác, rồi hòa giải với vũ trụ hẳn là cách tạo ra một môi trường hòa giải rộng lớn bao la để con người và vạn vật có thể sống cùng nhau một cách tốt lành.

Người gửi bài: Trần Thị Tâm Minh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2013(Xem: 12684)
Tạp chí nghiên cứu người tiêu dùng Journal of Consumer Research công bố một khảo sát năm 2012, kiểm chứng rằng tại sao người tiêu dùng là nam giới lại thường tránh xa chuyện ăn chay. Trong đó, khảo sát này nhấn mạnh "Thịt dường như đồng nghĩa với quyền lực và sức mạnh đàn ông".
30/10/2013(Xem: 39412)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
30/10/2013(Xem: 8447)
Một nữ doanh nhân nổi tiếng trong lĩnh vực địa ốc, nổi tiếng vì sở hữu nhiều ngôi nhà đẹp, từng có nhiều bài viết sắc sảo về kinh doanh. Thời gian gần đây chị “từ bỏ cuộc chơi” để tìm về với Phật pháp và chọn Huế là nơi chốn dừng chân của mình. Trong một thời gian ngắn từ 2010 đến nay, chị đã xây dựng ở Huế ba công trình từ thiện và nổi bật là Cát Tường Quân với kiến trúc độc đáo và thanh tịnh đang trở thành điểm đến của du khách mỗi khi dừng chân ở Huế.
29/10/2013(Xem: 12570)
Trong lá thư này, Lạt Ma Zopa Rinpoche trả lời cho một sinh viên học lâu năm với Ngài, một người đã viết thư để cảm ơn Ngài đã “cầu nguyện, dạy dỗ và che chở” trong nhiều năm qua. Người sinh viên xin được giấu tên hiện đang chăm sóc cho Mẹ đang chịu nhiều đau đớn về thể xác sau khi bị hàng loạt những cơn đột quỵ. Như là một phương pháp để đương đầu với những khó khăn khi chăm sóc, người sinh viên đã tưởng tượng như đang chăm sóc cho Ngài Zopa Rinpoche khi chăm sóc cho Mẹ cô.
26/10/2013(Xem: 62942)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
24/10/2013(Xem: 13279)
Thiền định là một phương tiện chủ yếu vô song của Phật Giáo giúp người tu tập trực tiếp đạt được Giác Ngộ. Đức Phật đã nhắc đến phép luyện tập này ngay trong bài thuyết giảng đầu tiên về Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) khi Ngài nói về Sự Thật Cao Quý thứ tư và Con Đường Của Tám Điều Đúng Đắn (Bát Chánh Đạo). Tuy nhiên không phải vì thế mà tất cả những người tự nhận mình là Phật tử đều luyện tập thiền định.
23/10/2013(Xem: 10069)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu, trìu mến nhau mà người đời thường hay gọi là tình cảm. Nếu nói về muôn loài trên thế gian, con người là sinh vật cao cấp sống bằng “tình cảm” vì có hiểu biết, suy nghĩ, nói năng, nhận thức và làm được nhiều việc đóng góp lợi ích thiết thực trong bầu vũ trụ bao la này.
19/10/2013(Xem: 8492)
Ngày 27, tháng 9, năm 2013 – “Nếu bạn có thể học đi xe đạp bạn có thể học làm thế nào để được hạnh phúc,” nhà sư Phật giáo 67 tuổi và là người hạnh phúc nhất trên thế giới nói. Khi còn nhỏ, nhà thơ Andre Breton, nhà làm phim Louis Buñuel và nhạc sĩ Igor Stravinsky là những vị khách thường xuyên của gia đình triết gia Ricard. Tuy vậy, nhận thấy đặc tính của những người bạn của song thân không có vẻ gì là hạnh phúc hơn nên Ngài đã tìm đến Hy mã lạp sơn bỏ sau lưng công việc của một nhà sinh học tại Viện Pasteur và thay đổi cuộc đời qua thiền tập. Tính đến lần cuối cùng, Ngài đã đạt được hơn 10,000 giờ đồng hồ. Phương pháp chụp MRI tinh tế tại phòng nghiên cứu về não bộ tại Wisconsin đã cho thấy mức lạc quan siêu đẳng và hầu như không có chút cảm nhận tiêu cực nào của Ngài. Ngài nói: “Tôi không thấy mọi thứ đều màu hồng nhưng những thăng trầm của cuộc sống không trụ trong tôi theo cách của đời thường.”
19/10/2013(Xem: 12405)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
17/10/2013(Xem: 8288)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên và năm 1917 lúc Ngài 22 tuổi đã xuất gia tu học tại chùa Quang Lộc tỉnh Quảng Ngãi với Pháp Danh là Chơn Qúy. Ngài thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh thuộc thế hệ truyền thừa thứ 7. Ngài sinh năm 1895 và viên tịch năm 1961.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]