Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viếng Thị Ngạn Am

11/04/201120:48(Xem: 7207)
Viếng Thị Ngạn Am
Viếng Thị Ngạn Am
image

Được LHQ đồng ý cho tổ chức ở VN là điều vinh dự cho Phật giáo VN, vì chuyện này không phải dễ. Phật giáo VN đã có từ ngàn năm trước, đã qua bao nhiêu chế độ, từ quân chủ đến thực dân, từ công hòa đến cộng sản, sao lại đem cái vô hạn mà lồng vào với giới hạn?

Nhân đọc bài “Buổi sáng Thị Ngạn Am” của tác giả Nguyễn Đạt, tôi có ý định viết về một buổi chiều đã đến đấy viếng thăm Thầy.

Các bạn tôi cũng đã nhắc nhở tôi viết đôi dòng để kỷ niệm chuyến ghé thăm “Thị Ngạn Am,” một nơi mà không phải muốn đến là được này, nhưng tôi cứ dè dặt mãi: không biết với buổi thăm viếng ngắn ngủi, tôi nhớ được “bao nhiêu” những câu chuyện cùng Thầy mà dám mạo muội mài nghiên ? Nhưng mà … nếu không viết thì thật là tiếc, thôi thì cứ ghi lại vài câu chuyện nho nhỏ còn đâu đó trong ký ức mòn mỏi còn hơn là không ?

Tôi được anh Hùng và anh Kiệt, những đàn anh của tôi thời còn “lăn lóc” trên hành lang Viện ĐH Vạn Hạnh những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 đưa đến chùa Già Lam thăm Thầy trong một buổi trưa giữa tháng 12/2007.

Buổi trưa ở Sàigòn, dù là tháng 12 cũng nóng, bụi bậm, ồn ào đến ngột ngạt đối với những người sống ở vùng tây bắc hiền hòa, yên ắng như tôi. Nhưng khi vừa đến chùa Già Lam tôi bỗng cảm thấy như mình đã lạc vào một thế giới khác, thế giới của tĩnh lặng thâm trầm mát mẻ với những bóng râm của cây xanh. Anh Kiệt đưa tôi và anh Hùng lên những bậc thang bên góc trái của dãy nhà nơi Thầy Tuệ Sỹ cư ngụ, được gọi là “Thị Ngạn Am.”

Vừa bước vào tôi đã gặp ngay Thầy đang ngồi trên chiếc ghế thấp với một đệ tử còn rất trẻ. Sau thủ tục “tự giới thiệu,” vì Thầy đâu có nhớ tôi, một trong số hằng ngàn sinh viên của Viện ĐH VH trước năm 75. Tôi không để mất thì giờ nên sau một vài câu chuyện mở đầu đã vào đề để trình bầy Thầy rõ những ưu tư của chúng tôi về những gì đã xẩy ra cho Phật giáo VN cũng như cho chính bản thân Thầy trong khoảng hơn nửa năm qua tại hải ngọai.

Với cặp mắt thật sáng, cái sáng của vầng trăng vằng vặc nhưng nhẹ nhàng, vừa đủ để soi rọi cho lời phát biểu nhanh mà hùng hồn chi lạ. Thầy như cho tôi thấy Thầy hoàn toàn đứng ngoài những hệ lụy tất yếu ấy. Thầy biết những điều xẩy ra, nhưng dường như chẳng mảy may bận tâm! Thầy bảo tôi có điều may là đến thăm Thầy hôm nay, nếu tuần sau thì Thầy nhập thất nên sẽ không tiếp được. Tôi vội hỏi Thầy thường nhập thất bao lâu, Thầy trả lời: ”Thường thì một hai tuần, đôi khi cả tháng.”

Khi nghe tôi đặt vấn đề VN tổ chức lễ Phật Đản năm 2008, Thầy bảo: được LHQ đồng ý cho tổ chức ở VN là điều vinh dự cho Phật giáo VN, vì chuyện này không phải dễ. Phật giáo VN đã có từ ngàn năm trước, đã qua bao nhiêu chế độ, từ quân chủ đến thực dân, từ công hòa đến cộng sản, sao lại đem cái vô hạn mà lồng vào với giới hạn?

Đến việc Thầy Thát mở trường ĐH, Thầy bảo: giữa Thầy và Thầy Thát luôn là bạn trân qúy nhau, nhưng Thầy không có liên hệ đến việc làm của Thầy Thát, và việc Thầy Thát mở trường ĐH là điều cần thiết cho tu sinh ở VN và ngay cả cho tuổi trẻ VN trong việc mở mang kiến thức để tranh đua với thế giới đang tiến bộ từng giờ. Những phát biểu của Thầy về Thầy Thát làm tôi nhớ lại khoảng ngày này năm trước,cũng trong chuyến về thăm VN tôi đã được nghe chính Thầy Thát kể lại bao chặng đường gian truân để cố hình thành cho được một ĐH như hằng tâm nguyện.

Khi hỏi đến “Nhóm thân hữu Già Lam” thì Thầy nở nụ cười thật hiền hòa, trong ánh mắt dịu dàng của Thầy dường như bùng lên rực sáng, Thầy bảo tôi: “Đấy, anh đang ở chùa Già Lam, anh có thấy ai ngoài cậu tu sinh trẻ đang thăm tôi ? Chuyện nhóm thân hữu Già Lam là chuyện các đệ tử bên Hoa Kỳ, chứ ở đây thì nào có ai?”

Tôi nhấp chén trà mà anh tu sinh trẻ mời, chợt nghe thơm ngát; rảo mắt nhìn xuống khu vườn nho nhỏ trước Thị Ngạn Am tôi bỗng thấy sinh động lạ thường, bao nhiêu sức sống đang vươn lên dưới kia qua những tàn lá xanh mướt bên cạnh một vài đóa hoa nở muộn như mời mọc vạn vật vào cuộc tái sinh ?

Tôi quay sang nhìn Thầy, Thầy vẫn như ngày nào tôi đã một đôi lần diện kiến từ thời tuổi trẻ đến trường, vẫn vóc dáng gầy guộc nhẹ nhàng, vẫn nụ cười trong sáng song hành cùng đôi mắt…

Thầy vẫn thế, thong dong một cõi, an nhiên tự tại trước những bon chen danh vọng, thị phi đời thường. Tôi bỗng nhớ đến tập thơ “Giấc mơ Trường Sơn” của Thầy, tập thơ tuy bé nhỏ nhưng đã gửi gấm biết bao xúc động của nhà thơ Tuệ Sỹ trong cả một quãng đời dài, nhớ đến các bài thơ đã diễn đạt những tâm tình của Thầy về cuộc trường sinh? Những khi lên rừng, giã từ nghiên mực để cầm cuốc làm rẫy, lo cuộc mưu sinh ? Rồi trở về thành thị giam mình trên gác vắng, rồi lại lên rừng đi tù … Nhưng Thầy đã nói gì đâu, như vạn vật có nói gì đâu mà cuộc sống thì có bao giờ ngưng nghỉ?

Chiều đang xuống, tôi nhìn ra ngoài sân chùa, bóng cây bồ đề mát rượi đang đổ xuống lối đi... Cảnh chùa thật thanh vắng, đơn sơ, khác xa với cái huyên náo, bon chen, tranh giành, lừa lọc ngoài kia... Bất giác tôi nhớ đến hai câu thơ của Thầy mà anh bạn thân VH của tôi rất thích:

"Bờ bến lạ chút tự tình với bóng

Mây lạc loài ôi tóc rũ ngàn năm.."

Nếu trong CD thơ “Giấc mơ Trường Sơn” nhà bình thơ Nhất Thanh đã nói: người ta có thể nghe thơ bằng đôi tai, nhìn thơ bằng đôi mắt hoặc ngược lại nhìn thơ bằng đôi tai, nghe thơ bằng đôi mắt, tùy mỗi người … Với thơ của Thầy Tuệ Sỹ, mọi ước lệ đều trở nên vô nghĩa … Thì tôi cũng nhận ra một điều: mọi lời phê phán của người đời đối với Thầy Tuệ Sỹ chẳng qua là những ngọn gió thổi qua dãy Trường Sơn sừng sững vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2010(Xem: 8472)
Phận làm người xuất gia, việc đi cúng dường như xuất hiện đồng thời với chí nguyện phụng Phật, độ sanh. Đi cúng là đi đến nhà cư sĩ, đơn giản thì để chứng minh, chú nguyện cho một sở cầu nào đó của họ. Phức tạp hơn là thực hiện một lễ nghi nào đó như cầu an, cầu siêu, an vị Phật hay cúng nhà mới v.v… Đi cúng là một hiện tượng mà xung quanh nó xuất hiện nhiều quan điểm, thái độ đánh giá. Với một vài vị xuất gia, việc đi cúng dường như không phải là trách vụ cơ bản của hàng xuất sĩ, và do vậy họ đã cực lực lên án, thậm chí là cười nhạo, đả phá. Trong khi đó có một số vị khác tận lực, và thậm chí chấp nhận buông bỏ việc tìm cầu tri thức, thời khóa tu tập … để toàn tâm đi cúng khắp nhân gian.
01/07/2010(Xem: 14909)
Ở làng quê Việt Nam ngày xưa, khi làm mùa vụ, người nông dân có thể nhờ vài người trong thôn xóm đến phụ giúp mà không phải trả tiền. Chỉ cần đến phiên bên kia làm mùa vụ, hay sửa sang nhà cửa, hoặc bất cứ công việc nặng nhọc nào đó, thì bên này sẽ qua phụ giúp lại. Cái đó gọi là vần công. Cách thức này thật hay.
25/06/2010(Xem: 7497)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
17/06/2010(Xem: 7335)
Gần90 phần trăm dân tộc Miến đều theo Phật Giáo. Giữa khung cảnh xanh tươicủa đất Miến, người ta thấy vươn lên từ các đỉnh đồi dọc theo bờ sông hay trên thung lũng những ngôi chùa màu trắng. Ðời sống xã hội Miến hoàntoàn xây dựng trên nền tảng Phật Giáo. Tinh thần từ bi của đạo Phật đã thấm nhuần sâu xa khắp mọi tâm hồn dân Miến. Trong xã hội tăng già hay Phongyis chiếm một địa vị cao quý, quan trọng. Ảnh hưởng của họ chi phốikhắp các từng lớp dân chúng. Họ tham dự vào hết thảy mọi công tác từ thiện. Mỗi thôn xóm đều có một ngôi chùa gọi là Phong yikyaung để giúp đỡ, phát triển Phật sự trong vùng.
02/06/2010(Xem: 6494)
Một người bề ngoài trông có vẽ khỏe mạnh với vóc dáng hấp dẫn , diện mạo phương phi nhưng nếu trong lòng có điều phiền muộn , bất ổn về tâm lý thì không thể xem là có sức khỏe toàn diện . Và yếu tố tâm lý luôn luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì , bảo vệ sức khỏe .
01/06/2010(Xem: 5595)
Phóng sinh bắt nguồn từ kinh Phật Đại Thừa, thịnh hành ở Trung Hoa, Tây Tạng, truyền sang Nhật Bản và các nước láng giềng Triều Tiên, Việt Nam. Hoạt động phóng sinh dựa trên tinh thần từ bi và bình đẳng giữa chúng sinh, và quan niệm nhân quả của sinh tử luân hồi. Nếu vừa giữ giới sát, lại vừa phóng sinh thì công đức gấp bội.Những tỷ dụ kinh nghiệm cảm ứng về phóng sinh, sách sử nói đến rất nhiều.
27/05/2010(Xem: 8794)
Có người nói ngủ chiếm một phần ba cuộc đời, uổng phí quá! Đừng ngủ thì lợi hơn! Nhưng lợi đâu không thấy chỉ thấy mất ngủ vài ba đêm thì đầu óc không sảng khỏai để làm việc, năng suất thấp, mất ngủ lâu dài hơn thì dẫn tới bệnh tâm thần và cuối cùng thì thay vì cuôc sống dài ra lại bị rút ngắn đi một cách đáng tiếc!
15/05/2010(Xem: 6402)
Kinh Bốn Mươi Hai Chương - Thích Thanh Cát, Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Ngài tự nghĩ : “Xa lìa mọi ham muốn, tâm được yên vui bình tĩnh. Tâm yên vui bình tĩnh là điều cao quý nhất. Chính Tâm ấy mới ở trong Đại-định để hàng phục mọi ma chướng.” Suy nghĩ xong, Đức Phật đến vườn Lộc-Giả nói pháp Tứ-đế, độ anh em ông Kiều Trần Như, năm người đều chứng đạo quả. Tiếp đó có vị Tỳ-khưu lại muốn hỏi những điều còn nghi ngờ, xin Phật chỉ bảo cho các điều phải trái. Vì vậy, Đức Thế-Tôn lại cặn kẽ dạy bảo khiến các vị Tỳ-khưu, ai nấy đều lĩnh hiểu rành mạch, và chắp tay kính cẩn đón nghe những lời Phật dạy.
09/05/2010(Xem: 10630)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
26/04/2010(Xem: 7153)
Phép Lạ Trong Câu Nói Của Vị Bác Sĩ Sau Đại lễ Phật Đản, tôi đến Chùa thăm Sư Phụ và Chư Tôn Đức. Lúc chờ ở ngoài sân Chùa, phía sau hiên nhà bếp, tôi gặp rất đông anh em làm công quả đang đứng ngồi giải lao. Họ hỏi tôi: - "A Di Đà Phật, lúc này anh Thị Chơn có khám phá ra điều gì lạ không? Nói cho tụi em biết với". - "A Di Đà Phật. Lạ thì chẳng có gì lạ cả". Tôi trả lờirồi tiếp:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567