Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viếng Thị Ngạn Am

11/04/201120:48(Xem: 8130)
Viếng Thị Ngạn Am
Viếng Thị Ngạn Am
image

Được LHQ đồng ý cho tổ chức ở VN là điều vinh dự cho Phật giáo VN, vì chuyện này không phải dễ. Phật giáo VN đã có từ ngàn năm trước, đã qua bao nhiêu chế độ, từ quân chủ đến thực dân, từ công hòa đến cộng sản, sao lại đem cái vô hạn mà lồng vào với giới hạn?

Nhân đọc bài “Buổi sáng Thị Ngạn Am” của tác giả Nguyễn Đạt, tôi có ý định viết về một buổi chiều đã đến đấy viếng thăm Thầy.

Các bạn tôi cũng đã nhắc nhở tôi viết đôi dòng để kỷ niệm chuyến ghé thăm “Thị Ngạn Am,” một nơi mà không phải muốn đến là được này, nhưng tôi cứ dè dặt mãi: không biết với buổi thăm viếng ngắn ngủi, tôi nhớ được “bao nhiêu” những câu chuyện cùng Thầy mà dám mạo muội mài nghiên ? Nhưng mà … nếu không viết thì thật là tiếc, thôi thì cứ ghi lại vài câu chuyện nho nhỏ còn đâu đó trong ký ức mòn mỏi còn hơn là không ?

Tôi được anh Hùng và anh Kiệt, những đàn anh của tôi thời còn “lăn lóc” trên hành lang Viện ĐH Vạn Hạnh những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 đưa đến chùa Già Lam thăm Thầy trong một buổi trưa giữa tháng 12/2007.

Buổi trưa ở Sàigòn, dù là tháng 12 cũng nóng, bụi bậm, ồn ào đến ngột ngạt đối với những người sống ở vùng tây bắc hiền hòa, yên ắng như tôi. Nhưng khi vừa đến chùa Già Lam tôi bỗng cảm thấy như mình đã lạc vào một thế giới khác, thế giới của tĩnh lặng thâm trầm mát mẻ với những bóng râm của cây xanh. Anh Kiệt đưa tôi và anh Hùng lên những bậc thang bên góc trái của dãy nhà nơi Thầy Tuệ Sỹ cư ngụ, được gọi là “Thị Ngạn Am.”

Vừa bước vào tôi đã gặp ngay Thầy đang ngồi trên chiếc ghế thấp với một đệ tử còn rất trẻ. Sau thủ tục “tự giới thiệu,” vì Thầy đâu có nhớ tôi, một trong số hằng ngàn sinh viên của Viện ĐH VH trước năm 75. Tôi không để mất thì giờ nên sau một vài câu chuyện mở đầu đã vào đề để trình bầy Thầy rõ những ưu tư của chúng tôi về những gì đã xẩy ra cho Phật giáo VN cũng như cho chính bản thân Thầy trong khoảng hơn nửa năm qua tại hải ngọai.

Với cặp mắt thật sáng, cái sáng của vầng trăng vằng vặc nhưng nhẹ nhàng, vừa đủ để soi rọi cho lời phát biểu nhanh mà hùng hồn chi lạ. Thầy như cho tôi thấy Thầy hoàn toàn đứng ngoài những hệ lụy tất yếu ấy. Thầy biết những điều xẩy ra, nhưng dường như chẳng mảy may bận tâm! Thầy bảo tôi có điều may là đến thăm Thầy hôm nay, nếu tuần sau thì Thầy nhập thất nên sẽ không tiếp được. Tôi vội hỏi Thầy thường nhập thất bao lâu, Thầy trả lời: ”Thường thì một hai tuần, đôi khi cả tháng.”

Khi nghe tôi đặt vấn đề VN tổ chức lễ Phật Đản năm 2008, Thầy bảo: được LHQ đồng ý cho tổ chức ở VN là điều vinh dự cho Phật giáo VN, vì chuyện này không phải dễ. Phật giáo VN đã có từ ngàn năm trước, đã qua bao nhiêu chế độ, từ quân chủ đến thực dân, từ công hòa đến cộng sản, sao lại đem cái vô hạn mà lồng vào với giới hạn?

Đến việc Thầy Thát mở trường ĐH, Thầy bảo: giữa Thầy và Thầy Thát luôn là bạn trân qúy nhau, nhưng Thầy không có liên hệ đến việc làm của Thầy Thát, và việc Thầy Thát mở trường ĐH là điều cần thiết cho tu sinh ở VN và ngay cả cho tuổi trẻ VN trong việc mở mang kiến thức để tranh đua với thế giới đang tiến bộ từng giờ. Những phát biểu của Thầy về Thầy Thát làm tôi nhớ lại khoảng ngày này năm trước,cũng trong chuyến về thăm VN tôi đã được nghe chính Thầy Thát kể lại bao chặng đường gian truân để cố hình thành cho được một ĐH như hằng tâm nguyện.

Khi hỏi đến “Nhóm thân hữu Già Lam” thì Thầy nở nụ cười thật hiền hòa, trong ánh mắt dịu dàng của Thầy dường như bùng lên rực sáng, Thầy bảo tôi: “Đấy, anh đang ở chùa Già Lam, anh có thấy ai ngoài cậu tu sinh trẻ đang thăm tôi ? Chuyện nhóm thân hữu Già Lam là chuyện các đệ tử bên Hoa Kỳ, chứ ở đây thì nào có ai?”

Tôi nhấp chén trà mà anh tu sinh trẻ mời, chợt nghe thơm ngát; rảo mắt nhìn xuống khu vườn nho nhỏ trước Thị Ngạn Am tôi bỗng thấy sinh động lạ thường, bao nhiêu sức sống đang vươn lên dưới kia qua những tàn lá xanh mướt bên cạnh một vài đóa hoa nở muộn như mời mọc vạn vật vào cuộc tái sinh ?

Tôi quay sang nhìn Thầy, Thầy vẫn như ngày nào tôi đã một đôi lần diện kiến từ thời tuổi trẻ đến trường, vẫn vóc dáng gầy guộc nhẹ nhàng, vẫn nụ cười trong sáng song hành cùng đôi mắt…

Thầy vẫn thế, thong dong một cõi, an nhiên tự tại trước những bon chen danh vọng, thị phi đời thường. Tôi bỗng nhớ đến tập thơ “Giấc mơ Trường Sơn” của Thầy, tập thơ tuy bé nhỏ nhưng đã gửi gấm biết bao xúc động của nhà thơ Tuệ Sỹ trong cả một quãng đời dài, nhớ đến các bài thơ đã diễn đạt những tâm tình của Thầy về cuộc trường sinh? Những khi lên rừng, giã từ nghiên mực để cầm cuốc làm rẫy, lo cuộc mưu sinh ? Rồi trở về thành thị giam mình trên gác vắng, rồi lại lên rừng đi tù … Nhưng Thầy đã nói gì đâu, như vạn vật có nói gì đâu mà cuộc sống thì có bao giờ ngưng nghỉ?

Chiều đang xuống, tôi nhìn ra ngoài sân chùa, bóng cây bồ đề mát rượi đang đổ xuống lối đi... Cảnh chùa thật thanh vắng, đơn sơ, khác xa với cái huyên náo, bon chen, tranh giành, lừa lọc ngoài kia... Bất giác tôi nhớ đến hai câu thơ của Thầy mà anh bạn thân VH của tôi rất thích:

"Bờ bến lạ chút tự tình với bóng

Mây lạc loài ôi tóc rũ ngàn năm.."

Nếu trong CD thơ “Giấc mơ Trường Sơn” nhà bình thơ Nhất Thanh đã nói: người ta có thể nghe thơ bằng đôi tai, nhìn thơ bằng đôi mắt hoặc ngược lại nhìn thơ bằng đôi tai, nghe thơ bằng đôi mắt, tùy mỗi người … Với thơ của Thầy Tuệ Sỹ, mọi ước lệ đều trở nên vô nghĩa … Thì tôi cũng nhận ra một điều: mọi lời phê phán của người đời đối với Thầy Tuệ Sỹ chẳng qua là những ngọn gió thổi qua dãy Trường Sơn sừng sững vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/12/2010(Xem: 6700)
Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chí và nghị lực. Thứ nhất: “Học để biết cách hiếu thảo với ông bà cha mẹ”. Cây có cội, nước có nguồn. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Biết ơn và đền ơn là quy tắc đạo thờ ông bà tổ tiên dân tộc Việt Nam và người tu theo đạo Phật. Thứ hai: Học để biết ơn thầy tổ. Thầy ở đây bao gồm thầy dạy chữ và dạy nghề nghiệp. Ngoài ra ta còn biết ơn thầy dạy về đạo đức luân lý sống trong xã hội. Trước tiên là học lễ phép, sau đó mới học chữ và học nghề chân chính. Thứ ba: Học để biết ơn đất nước, ơn các vị lãnh đạo có công giúp cho mọi người ổn định về đời sống an sinh xã hội và biết ơn các anh hùng nghĩa tử.
28/12/2010(Xem: 7246)
Hầu hết chúng ta đều mắc phải cái bệnh "đòi hỏi tuyệt đối". Giàu thì mình muốn giàu hơn tất cả, sang cũng muốn mình sang hơn tất cả, cho đến đẹp, giỏi, khen, đều là hơn tất cả. Có cái gì thua kém hơn người là buồn, tủi, bực dọc không hài lòng. Do đó cộc sống không thấy có hạnh phúc, vì thấy mình còn thua người này kẻ nọ. Hoặc than trách người thân của mình sao không được như ý mình muốn. Những nỗi khổ đau buồn bực ấy đều do không hiểu "cuộc đời tương đối mà!"
26/12/2010(Xem: 11731)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
25/12/2010(Xem: 9552)
Gần ¼ thế kỷ trong nghề đâm heo thuốc chó tại xứ người, tác giả có nhận xét chủ quan là hình như loài vật cũng có một thứ tình cảm, một linh cảm nào đó...
24/12/2010(Xem: 20257)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
23/12/2010(Xem: 6716)
Trả lời phỏng vấn của Tuần báo Pháp Le Point, đức Dalai Lama thứ 14 nghiêm khắc phê phán chủ trương cải đạo của người theo đạo Thiên chúa. Theo ngài đó một việc hoàn toàn lỗi thời và quá xa xưa.
19/12/2010(Xem: 19094)
Hoàngđế A-dục trị vì nước Ấn vào thế kỷ thứ III trướcTây lịch và cũng là một trong những nhân vật sáng chói nhấttrong lịch sử Phật giáo. Là vị hoàng đế nổi tiếng nhấtcủa triều đại Maurya ông đã thống nhất gần toàn thểbán lục địa Ấn độ. Dưới triều đại của ông,văn hóa được phát triển cao độ và cũng là lần đầu tiêntrong lịch sử nước Ấn mà sử liệu thật phong phú ghi chépbằng chữ viết còn lưu lại đến ngày nay. Nghệ thuật tiêubiểu và đặc trưng nhất cho nền văn hóa Ấn độ nói chungcũng đã phát sinh trong thời kỳ này.
19/12/2010(Xem: 8819)
Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-lai Lạt-ma được chọn lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Ngài. Sách gồm VI chương, dày 192 trang và sau đây là chương V của quyển sách mang tựa đề "Cẩm nang cho cuộc sống".
18/12/2010(Xem: 8923)
Nghiệp: Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen, có tất thảy ba nghiệp: nghiệp thân, nghiệp khẩu và nghiệp ý. Nghiệp có thể là nghiệp nhân, nguyên nhân của hành động, nhưng cũng có thể là nghiệp quả, kết quả của hành động. Nghiệp nhân giống như là hạt giống, nghiệp quả ví như là quả. Khi tư duy (khởi tâm) thì nó trở thành một năng lượng, và năng lượng đó chỉ mới là hạt giống. Nhưng hạt giống thì thế nào cũng sẽ thành cây và kết trái.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]