Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thế tính của sự nguyện cầu

06/02/201123:56(Xem: 5115)
Thế tính của sự nguyện cầu


phattu_1THỂ TÍNH CỦA SỰ NGUYỆN CẦU
Thích Nguyên Hùng

Cúng lễ, cầu nguyện, xin ơn trên phù hộ cho bản thân, gia đình được bình an hay hoàn thành một điều ước, một tâm nguyện nào đó là một trong những nhu cầu căn bản và thiết yếu của con người, diễn ra trong sinh hoạt của hầu hết các tôn giáo.

Thời Phật còn tại thế, những nghi thức tế lễ, cầu nguyện rất phổ biến và thịnh hành trong dân gian. Những đạo sĩ Bà-la-môn, Phạm chí… đều là những vị thầy giỏi về tế lễ. Và biết tế lễ là một trong những điều kiện cần và đủ để trở thành một Bà-la-môn cao quý. Theo kinh Phạm Động (Trường A-hàm), thời bấy giờ có rất nhiều tôn giáo, ít nhất là có 62 học thuyết tôn giáo khác nhau, và vị lãnh đạo tôn giáo nào cũng cho tôn giáo của mình là đúng đắn, có thể đưa linh hồn của con người sau khi chết lên cõi Trời, sống chung với Phạm thiên. Phương pháp để đạt được điều mà mọi người hằng mong ước ấy, dĩ nhiên là dựa vào sự cầu nguyện, tế lễ và rửa tội bằng một hình thức lễ nghi nào đó, như trầm mình xuống dòng sông Hằng chẳng hạn.

Không ai biết đích thực có Phạm thiên hay không, và tuyệt nhiên tất cả những người dân bình thường, vốn ít học, ngây ngô, không hề đặt vấn đề rằng những bậc thầy tế lễ, những Bà-la-môn, Phạm chí đã hiệp thông với đấng Phạm thiên hay chưa, và có chắc chắn được về với Phạm thiên hay không, người ta vẫn tin rằng bản thân mình hay người thân của mình sẽ được trở về cõi Trời nhờ sự cầu nguyện và tế lễ của những bậc thầy kia. Mà đâu chỉ có những người dân chân lấm tay bùn mới tin như thế? Có không ít những người có học cũng tin như vậy!

Kinh Trung A-hàmghi lại rằng, vào một ngày nọ, khi Thế Tôn đang du hóa tại Na-la-đà và nghỉ đêm trong rừng Nại, khi đêm gần sáng, Già-di-ni, con trai của A-tu-la Thiên, sắc tướng uy nghi, chói sáng rực rỡ, đi đến nơi Đức Phật đang thiền tọa, cúi đầu lạy dưới chân Ngài rồi thưa: "Bạch Thế Tôn, các người Phạm chí rất cao ngạo, họ tự cho ngang bằng Trời, hay con của Trời, hay là Thiên sứ… Họ cho rằng, nếu có chúng sanh nào mạng chung, họ có thể làm cho chúng sanh đó tự do qua lại các thiện xứ, sanh lên cõi Trời. Thế Tôn là Pháp chủ, mong Thế Tôn cũng làm cho chúng sanh khi mạng chung đi đến thiện xứ, sanh lên cõi Trời".

Ở đây, chúng ta nhận thấy Già-di-ni tin và hiểu Đức Phật là đấng Pháp chủ, chắc chắn sẽ có đầy đủ quyền năng và thần thông quảng đại hơn hẳn các Phạm chí, Bà-la-môn. Hơn nữa, Thế Tôn là thầy của trời người, thì việc làm cho chúng sanh được qua lại các cảnh giới tốt đẹp hay sanh lên cõi Trời là điều rất dễ dàng đối với Ngài. Thế nhưng, Già-di-ni chưa bao giờ nghe Đức Thế Tôn hứa hẹn hay tuyên bố điều đó, như các Phạm chí, Bà-la-môn đã làm. Và vì vậy, Già-di-ni thỉnh cầu Đức Phật hãy làm như những Phạm chí, Bà-la-môn, giáo chủ các tôn giáo khác, tức hãy tuyên bố, hứa hẹn đưa các tín đồ đệ tử của Ngài sanh lên cõi Trời sau khi họ qua đời.

Đó là niềm tin, là nhận thức, là sự hiểu biết của một chúng sanh ở cõi Trời về Đức Phật. Chư thiên cõi Trời mà có trình độ hiểu biết như vậy thì chúng sanh phàm phu ở cõi đời trần tục này làm sao không tin rằng Đức Phật có thể ban phước, giáng họa cho mình? Vậy mà, sự thật thì Đức Phật chẳng bao giờ ban phước giáng họa cho ai, Ngài chỉ dạy sống như thế nào thì được phước, và sống như thế nào thì sẽ tự chuốc họa vào thân mà thôi.

Đức Phật nói với Già-di-ni: Ông nghĩ thế nào? Nếu có một người luôn gây tạo mười nghiệp ác là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối... cho đến tà kiến, đến khi người ấy chết, một số đông người đến chắp tay cầu nguyện, van xin, mong cho người ấy được sanh vào thiện xứ hay sanh lên cõi Trời. Này Già-di-ni, có phải nhờ vào sự cầu nguyện đó mà người đã tạo mười nghiệp ác kia được sanh vào thiện xứ hay sanh lên cõi Trời chăng?

Già-di-ni trả lời không thể nào. Đức Phật kết luận: Giống như lấy tảng đá lớn ném xuống vực nước sâu rồi đứng trên bờ cầu nguyện, hy vọng cục đá nổi lên, đó là điều không tưởng! Cho nên, mười loại nghiệp đạo bất thiện là sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến, vốn đen, có quả báo đen, tự nhiên đi thẳng xuống, chắc chắn đi đến ác xứ. Ngược lại, nếu một người suốt đời tu tập mười nghiệp thiện, đến khi chết, chắc chắn đến thiện xứ, vì mười nghiệp đạo thiện là trắng, có quả báo trắng, tự nhiên thăng lên, giống như đập vỡ hũ dầu rồi quăng xuống nước, hũ bị vỡ, sành cặn chìm xuống, dầu bơ nổi lên trên.

Rồi Thế Tôn dạy: "Này Già-di-ni, có con đường vườn hoa, con đường thăng tấn, con đường thiện xứ. Thế nào là lại có con đường vườn hoa, con đường thăng tấn, con đường thiện xứ? Đó là Thánh đạo tám chi. Từ chánh kiến cho đến chánh định; đó là tám".

Rõ ràng, đường đi đến thiện xứ, lên thiên đường, thành tựu giải thoát là con đường Bát Thánh đạo chứ không phải bằng vào sự cầu nguyện. Trong Phật giáo không có chuyện đưa ai lên thiên đường hay đày ai xuống địa ngục. Đi lên hay đi xuống đều tùy thuộc vào hành nghiệp của mỗi chúng sanh là thiện hay bất thiện, hay nói cách khác là thực hành hay không thực hành Bát Thánh đạo.

Nói như thế phải chăng trong Phật giáo hoàn toàn không có sự nguyện cầu? Và chối bỏ hạnh nguyện độ tha?

Trong một lần hoằng pháp tại tỉnh Nantes, miền Tây nước Pháp, có anh Phật tử người Tích Lan đã hỏi: Thầy có nhớ câu thần chú của Tôn giả Angulimāla không? Xin thầy nhắc lại giúp con!". Tìm hiểu mới biết rằng, thì ra học sinh tiểu học ở Tích Lan đã được học những bài học đạo đức từ kinh sách Phật giáo, nên những câu chuyện như chuyện của ngài Angulimāla đều ăn sâu vào tiềm thức của các em.

Chuyện ấy kể rằng, một hôm Tôn giả Angulimāla trên đường đi khất thực gặp một sản phụ khó sinh, đau đớn, nguy kịch, tôn giả lập tức trở về tu viện trình bày với Đức Phật. Phật dạy Angulimāla đến đọc cho sản phụ ấy nghe một paritta, như là câu thần chú cứu nguy, với nội dung: "Kể từ khi Angulimāla tái sinh trong Thánh đạo này chưa từng cố ý giết hại một sinh mạng nào, bằng sự thực ấy, ước nguyện sản phụ sinh sản an toàn". Quả nhiên, sau khi tụng xong, người sản phụ nọ được mẹ tròn con vuông!

Người dân Tích Lan coi lời cầu nguyện đó của Tôn giả Angulimāla là câu thần chú, có khả năng bảo hộ bình an, tai qua nạn khỏi, nên họ học thuộc phiên âm bằng tiếng Pāli, và có người trì tụng hàng ngày, như người Việt Nam tụng chú Đại bi. Nội dung của câu thần chú đó có gì bí mật, quá thâm sâu khó hiểu không? Hoàn toàn không! Nó chỉ đơn giản là một lời nói thật, rất chân thật từ trái tim, từ tấm lòng bấy giờ đã tràn ngập sự yêu thương của Tôn giả Angulimāla, và sự thật ấy khi được nói lên đã phát huy sức mạnh, có thể cứu người thoát khỏi khổ đau ách nạn.

Trong Vinaya II, Tiểu phẩm (Cullavagga) ghi lại sự kiện những Tỳ-kheo sống trong rừng sâu bị rắn độc cắn chết, Đức Phật hay được và nói, nếu các Tỳ-kheo ấy đã rải tâm từ đến các loài rắn độc thì nhất định đã không bị chúng làm hại. Rồi Phật dạy bài kệ với nội dung là những lời ước nguyện, mong cho tâm từ của hành giả lan đến chúa tể các loài rắn độc, các sinh vật không chân, hai chân và bốn chân; ước nguyện các sinh loại đều được an lành, không làm hại Tỳ-kheo. Quả nhiên, từ khi các Tỳ-kheo đọc tụng lời cầu nguyện mang theo tâm lượng từ bi rải khắp muôn loài thì không còn bị rắn, rết đến làm phiền nữa.

Kinh Tạp A-hàmcũng ghi lại trường hợp những bà mẹ có con trẻ thường hay khóc đêm, đem tới tu viện, Đức Phật dạy các Tỳ-kheo tụng Pháp cú cho nó nghe: "Nếu ai biết Pháp cú, Tự mình hộ trì giới, Xa lìa sự sát sanh, Nói thật, không nói dối, Tự bỏ điều phi nghĩa, Giải thoát đường quỷ thần". Tụng xong, trẻ hết khóc, trở nên dễ nuôi, chóng lớn! Những bài Pháp cú như thế cũng được xem như là paritta hay thần chú.

Kinh Ratanasuttaghi: "Dù trong đời này hay đời khác, hay trên thiên giới, không có tài bảo vi diệu nào sánh với Đức Như Lai. Ở đây, Phật là tài bảo tối thắng vi diệu. Bằng sự thực này, ước nguyện tất cả đều được an lành".

Kể trên là những lời kinh nguyện cầu. Rải rác trong kinh điển Nikāya và Āgama đều thấy xuất hiện các paritta hay hộ chú như thế. Những lời kinh ấy đều diễn tả, nói lên sự thật hay chân lý và được hiểu là chân ngôn. Chân ngôn là lời nói chân thật, không hư dối, là phương tiện để diễn đạt chân lý.

Như vậy, trong Phật giáo không phải là không có sự nguyện cầu, mà tất cả nội dung của lời nguyện cầu đều phải là lời thật hay chân lý. "Chân lý là tính thể của sức mạnh kỳ diệu; ai biết nương tựa chân lý, sống với tâm tư hướng về chân lý, người ấy sống cuộc sống an lành. Đó là tính thể của sự cầu nguyện" (Tuệ Sĩ, Thiền và Bát nhã). Với ý nghĩa này, người Phật tử muốn nguyện cầu điều gì, hay cầu an, cầu siêu cho ai… chỉ cần nói lên sự thật rằng mình đang sống với Chánh pháp, đang nương tựa Chánh pháp, thì điều nguyện ấy sẽ có hiệu lực. Chẳng hạn, bạn có thể nói: "Con là Phật tử pháp danh Từ Tâm, từ khi con biết đến Tam bảo và sinh hoạt ở ngôi chùa này, con chưa từng nói dối, nguyện nhờ sự thật này mà gia đình con được bình an". Nếu lời nói này là sự thật, chắc chắn gia đình bạn sẽ được bình an, hưởng phước vô lượng!

Thích Nguyên Hùng

Bài viết liên quan:

BƠ VÀ NHỮNG VIÊN ĐÁ CUỘI - Tâm Diệu

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 12649)
Thời gian cứ mãi trôi. Vạn vật tiếp nối đổi dời thay hình biến sắc chẳng dừng. Bởi tâm người bất định, nên hình thành cảnh vật không thường. Chúng sanh tâm vô thường, nên hình thành cảnh vật bất an. Khác với tâm chúng sanh, tâm những người giác ngộ thì an định, nên tạo thành cảnh vật thường lạc. Vọng tưởng là trạng thái tâm thức si mê, tham vọng, phiền não đảo điên. Bất loạn là thể hiện tâm trí giác ngộ, thường nhiên an lạc.
08/04/2013(Xem: 24687)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Pháp (Dhamma) có nghĩa là đạo lý, chân lý, lời dạy của Ðức Phật; Cú (Pada) là lời nói, câu kệ. Ngoài ra, trong ngữ văn Pali, "Pada" còn có nghĩa là con đường. Do đó, Dhammapada thường được dịch là Con đường Chân lý (Path of Truth), Con đường Phật Pháp (Path of the Buddha's Teaching).
08/04/2013(Xem: 6454)
Đứng nhìn Tượng Đức Bồ Tát Quán Thế Âm vươn cao lên trên bầu trời, một hình ảnh quá thiêng liêng và tuyệt đẹp. Tượng Ngài màu trắng nổi bật trên nền màu xanh, có những đám mây trôi qua, nhẹ nhàng càng tô điểm thêm vẻ đẹp, . . .
08/04/2013(Xem: 4821)
Trong tâm mỗi chúng sanh đều có một vị Quán Thế Âm Bồ-tát. Nhân dịp vía đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Bồ Đề Hải xin đăng một bài giảng của Hòa Thượng vào ngày 16 tháng 3 năm 1976 trong dịp Quán Âm Thất.
08/04/2013(Xem: 6680)
Mấy ngày vừa qua, thành phố Houston- Texas, mưa thật nhiều. Không biết lượng nước mưa từ đâu đổ dồn về, có lúc kéo dài 21 ngày liên tục. nhiều vùng bị lụt, nhiều nơi bị những cơn giông làm sụp nhà cửa. Theo tin tức đã có 13 người chết.
08/04/2013(Xem: 6955)
Cuộc đời hoằng pháp của Đức Thích Ca được nhân loại chiêm ngưỡng, khảo nghiệm dưới nhiều góc độ: giải thoát học, tôn giáo học, khoa học, triết học, sử học... Song, tất cả đều có chung một mẫu số rằng: "Suốt 25 thế kỷ qua, Đức Phật, người sáng lập ra đạo Phật ...
08/04/2013(Xem: 18359)
Sa di nam, tiếng Phạn là Sramanera, và Sa di ni là Sramanerika. Sa di thường được dịch là tức từ. Tức là chấm dứt, quyết tâm chấm dứt nếp sống hệ lụy và khổ đau. Từ là thương yêu, học hỏi thương yêu mọi người và mọi loài bằng trái tim của một vị bồ tát, không vướng mắc, không phân biệt. Sa di cũng có nghĩa là cần sách, nghĩa là chuyên cần và luôn luôn được nhắc nhở.
08/04/2013(Xem: 7040)
Chợt thấy xuân mời, vào một sáng ngồi rơi im lặng, hơi thở bay vào trong phong bão, cơn say tỉnh cơn gió mỉm cười, lay cánh mai
08/04/2013(Xem: 6236)
“Tu Bồ Đề! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn sơ nhựt phần dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; trung nhựt phần diệc dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; hậu nhựt phần diệc dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí, như thị vô lượng bách thiên vạn ức kiếp dĩ thân bố thí. Nhược phục hữu nhơn văn thử kinh điển tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ; hà huống thơ tả, thọ trì đọc tụng, vi nhơn giải thuyết”.
08/04/2013(Xem: 5139)
Như mọi người đều biết, Đạo Phật trong suốt những thập niên qua đã có nền tảng khá vững chắc tại phương Tây. Riêng tại Đức, sự tìm hiểu và tu tập giáo lý Phật Đà của người bản xứ ngày càng nhiều thấy rõ. Ở điểm này có rất nhiều lý do để dẫn chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567