Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn Sự Thật Nhiệm Mầu

12/01/201120:19(Xem: 8255)
Bốn Sự Thật Nhiệm Mầu

labode_5

BỐN SỰ THẬT NHIỆM MẦU
Joseph Goldstein

Nguyễn Duy Nhiên dịch

Khổ Đế


Trong thời gian giáo lý của đức Phật đươ.c truyền bá khắp nơi trên Á Châu và thế giới, có nhiều trường phái với nhiều lối giải thích về Phật pháp khác nhau đươ.c sinh lên. Mỗi trường phái chú trọng vào một điểm riêng, có một hệ thống thần học riêng và những phương tiện khéo léo riêng biệt. Mặc dù các truyền thống khác nhau ấy có thể không đồng ý về một số điểm trong giáo lý đức Phật, nhưng có một công thức giáo pháp chung mà bao giờ cũng vẫn là trọng tâm của mọi truyền thống, đó là : Tứ Diệu Đế hay là Bốn Sự Thật Mầu Nhiệm.Đức Phật diễn tả sự thật đầu tiên trong Tứ Diệu Đế là Khổ đế, sư. thật về khổ đau. Chữ dukkha trong tiếng Pali có một nghĩa rất rộng, nó bao gồm khổ đau, bất an và sư. bất mãn. Đức Phật sau khi giác ngộ, ngài đã đối diện với sư. thật về khổ đau trong cuộc đời một cách không sợ hãi, không tư. thán. Ngài đã nhận diện những vấn đề của khổ đau hết sức rõ ràng : nỗi đau đớn của sanh, lão, bịnh, tư?, nỗi sầu lo, thất vọng, ưu tư, buồn khổ vì xa lìa người mình yêu, vì gần gũi người mình không ưu thích, vì không có đươ.c điều mình muốn - tất cả những cái ấy đều là dukkha. Khi ta quán chiếu tư. tánh duyên khởi của mọi hiện tươ.ng trên một cách sâu xa và tinh tế, chúng ta sẽ bắt đầu thấy đươ.c bản chất khổ đau cố hữu của chúng.Chúng ta ai cũng biết rằng những cảm thọ đau đớn trong tâm và thân là khổ đau. Nhưng chúng ta cũng có thể kinh nghiệm đươ.c khổ đau ấy, khi ta ý thức đươ.c sư. ngắn ngủi tạm thời của mọi hiện tượng. Không có bất cứ một kinh nghiệm nào, cho dầu tuyệt vời đến đâu, lại có thể đem đến cho ta một sư. thoảmãn sâu xa và trường cửu, vì chúng lúc nào cũng thay đổi. Sư. lưu chuyển không ngừng của các hiện tươ.ng thường gợi tôi liên tưởng đến một dòng nước đổ xuống từ một ghềnh thác cao. Dòng nước rơi xuống, tan tác, bất tận - ào ào - không bao giờ ngừng nghỉ . Đó cũng là tư. tánh của mọi hiện tươ.ng.Thêm vào đó, đức Phật đã diễn tả về một loại khổ đau thứ ba rất chi tiết trong một bài pháp nói về lửa : "Mắt đang bị lửa thiêu đốt, tai đang bị lửa thiêu đốt... thân... tâm... đang bị lửa nào thiêu đốt? Lửa của tham lam, lửa của sân hận và lửa của si mê. "Chúng ta khó có thể nào cởi mở đươ.c đối với sư. thật khổ đau, vì lúc nào ta cũng đi trốn tránh chúng, đi tìm ẩn náo trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta thường đi tìm hạnh phúc và nương tựa vào những gì đem lại cho mình khoái lạc, những gì mà chính chúng cũng chỉ là tạm bơ., nhất thời. Tất cả cũng chỉ vì phần đông chúng ta không biết thực tập phương pháp dừng lại, cởi mở ra với sư. sống chung quanh mình, để có thể cảm nhận đươ.c những gì thật sự đang xãy ra. Có một điều hơi mâu thuẩn, nhưng cũng rất là nhiệm mầu, về khổ đau là khi ta càng cởi mở càng tìm hiểu nó, thì tâm ta sẽ lại càng trở nên nhẹ nhàng và tư. do hơn. Vì khi ta không còn chối bỏ hay trốn tránh sư. thật nữa, tâm ta sẽ trở nên bao la hơn, cởi mở và an lạc hơn. Chúng ta cũng sẽ không còn bị sai sử bởi lòng tham dục hoặc những đam mê của mình, vì ta có thể nhìn thấy được rõ ràng tự tánh của mọi vật như là chúng hiệnhữu.Nhưng nếu chỉ nhìn thấy và hiểu đươ.c khổ đau trong cuộc đời này thôi cũng vẫn chưa đủ . Chân đế thứ hai, Tập đế, nhận diện đươ.c nguyên nhân của khổ đau. Khổ đau bắt nguồn từ đâu?

Tập Đế

Danh từ kilesa trong tiếng Pali có nghĩa là cảm xúc khổ thọ, tức là những nổi thống khổ trong tâm như là tham lam, ghen tức, thù hằn, sân hận, sơ. hãi. Những trạng thái tương tư. như thế dày xéo tâm ta, chúng làm cho ta điêu đứng và tạo nên trăm ngàn khổ đau.Kilesa có thể biểu hiện trên nhiều bình diện khác nhau. Đôi khi chúng có năng lươ.ng đủ mạnh để biến thành những hành động vô cùng bất thiện như là : Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, tư. hủy hoại mình và làm hại người khác. Ta có thể thấy đươ.c năng lươ.ng của kilesa biểu lộ thật rõ rệt, mỗi khi ta quan sát những gì đang xảy ra khắp nơi trên thế giới : giết chóc, hảm hiếp, tra tấn, đói khát, thù hận. Những khổ đau này có gốc rễ nằm trong tâm của mọi người, trong đó có cả bạn và tôi.Chúng ta có thể làm vơi bớt đi phần nào những khổ đau trên cuộc đời này bằng cách giữ một giới hạnh trong sạch. Đức Phật có dạy cho chúng ta về Ngũ Giới như là một phương pháp bảo vệ, giữ cho ta khỏi phạm vào những việc làm bất thiện. Ngũ giới ấy là : không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không dùng những chất say. Bạn hãy tươ?ng tươ.ng xem cuộc đời này đẹp biết bao nhiêu nếu ai cũng chỉ cần giữ một giới thôi - không giết hại người khác.Ỡ một mức độ thấp hơn, thì kilesa là những tâm thức bất thiện nào có khả năng tạo nên những lời nói hoặc tư tươ?ng mà ảnh hươ?ng của chúng hơi yếu hơn một chút. Và mức độ sâu kín hơn hết của kilesa, còn đươ.c gọi là những bất thiện ẩn tàng, hay những-hướng-khổ-đau tiềm tàng. Những khổ đau ấy hiện không có mặt trong giờ phút hiện tại, nhưng chúng có một tiềm năng khởi dậy nếu gặp hoàn cảnh thích hơ.p. Ví dụ như khi một người bị đặt vào những trường hợp khẩn trương, họ thường có những hành vi bất thiện mà thường ngày người ấy sẽ không bao giờ dám làm. Đó cũng chính là ở tiềm năng ấy.Đức Phật cũng có nhấn mạnh đến một loại tâm bất thiện đặc biệt, mà ta cần phải nhổ bỏ tận gốc, nếu ta muốn tận diệt nguyên nhân của khổ đau. Loại kilesa này, đươ.c xem như là nguy hiểm nhất, đó là niềm tin cho rằng mình có một cái "Tôi" thường hằng, bất biến. Ngày nào tâm ta vẫn còn bị ô nhiễm bởi tà kiến ấy, với quan niệm sai lầm ấy, nó sẽ lôi kéo ta vào biết bao nhiêu những việc làm bất thiện khác nữa! Và khi chúng ta có một ý niệm sai lầm về một cái "Tôi", ta sẽ cố gắng bảo vệ nó, thoả mãn nó, rồi biết bao nhiêu hành động của mình chung qui cũng chỉ để phục vụ cho ý niệm sai lầm này mà thôi. Nhà văn Wei Wu Wei có diễn tả cái tâm bất thiện ấy một cách thật gọn gàng và chính xác : "Nó cũng giống như một con chó ngồi sủa một cái cây, nhưng chỉ có điều là không có cây nào ở nơi đó cả !"Thiền tập có khả năng thanh lọc tâm ta sạch hết những bơ.n nhơ của kilesa, những gì đã từng gây nên biết bao khổ đau trong cuộc đời, mà chúng cũng là nền tảng cho cái nhìn sai lầm về sư. sống của ta. Nhờ năng lư.c của một ý thức tỉnh giác, ta sẽ có thể cảm nhận đươ.c, nếm được mùi vị của vô ngã - sự vắng mặt của một cái Tôi. Và ta sẽ hiểu đươ.c nó, không bằng lý thuyết hay qua ý niệm, nhưng bằng một kinh nghiệm trư.c tiếp ở ngay giờ phút hiện tại này.Thật ra tuệ giác giải thoát ấy không có gì là mới lạ cả. Nó đã có từ thời đức Phật và vô số những đức Phật trước đó nữa. Sư. hiểu biết này cũng chính là tư. tánh của Phật pháp. Nó đã đươ.c diễn tả qua tuệ giác của biết bao người thuộc nhiều nền văn hoá khác nhau. Một dũng sĩ Nhật vào thế kỷ thứ 14 có viết :

Tôi không có mẹ cha,

Tôi lấy trời đất làm cha mẹ .

Tôi không nơi cư ngụ ,

Tôi lấy sư. tỉnh giác làm nhà.

Tôi không có tử sanh,

Tôi lấy sư. ra vào của hơi thở làm lẽ sống chết.

Tôi không có thần thông,

Tôi lấy sư. chân thật làm phép lạ

Tôi không có bạn bè,

Tôi lấy tâm mình làm bằng hữu.

Tôi không có kẻ thù,

Tôi lấy thất niệm làm địch thủ .

Tôi không có áo giáp,

Tôi lấy từ tâm làm sư. bảo vệ .

Tôi không có lâu đài,

Tôi lấy tâm bất động làm thành trì bao bọc.

Tôi không mang đao kiếm,

Nhưng tôi chỉ cần một lưỡi gươm vô ngã mà thôi!

Diệt Đế

Chúng ta đều là những dũng sĩ, lấy vô ngã làm thanh gươm trí tuệ . Thanh gươm báu ấy có khả năng chém xuyên qua những si mê và đâm thủng đươ.c tấm màn vô minh mờ mịt.Chân lý thứ nhất là Khổ đế, dạy cho ta về sư. thật khổ đau và những mức độ khác nhau của chúng. Người hành giả hiểu đươ.c chân lý thứ hai, tức Tập đế, sẽ nhận thức đươ.c các nguyên nhân của khổ đau và tập buông bỏ chúng. Họ sẽ làm lung lay và bứng nhổ hết những gốc rễ của phiền não trong tâm, nhất là ý niệm về cái Ngã.Chân lý thứ ba của Tứ Diệ Đế, dạy rằng có một con đường có thể chấm dứt khổ đau, để trút bỏ đươ.c gánh nặng trên vai mình. Trong sư. tu tập, thỉnh thoảng ta cũng có thể thoáng thấy đươ.c sư. chấm dứt khổ đau ấy. Chúng ta có thể nếm đươ.c vị giải thoát nầy trong một khoảnh khắc, khi một kilesa vừa biến mất. Trong những khi ta đang bị vướng mắc vào những tình cảm phiền muộn, ta sẽ cảm thấy bó buộc, nóng nảy, nhỏ nhen; và vừa khi ta buông bỏ chúng, tức thì tâm ta sẽ đươ.c tự tại ngay. Ngay trong chính giây phút ấy, ta nếm đươ.c mùi vị của giải thoát, mùi vị của sư. chấm dứt khổ đau. Sư. tư. do ấy là thật, vì nó là kinh nghiệm của chính ta chứ không phải chỉ là một ý niệm đẹp mơ hồ nào đó. Cũng vậy, mỗi khi bạn có thể ý thức đươ.c sư. có mặt của một tư tưởng, thay vì bị nó lôi cuốn theo, tức là bạn đã kinh nghiệm đươ.c sư. bừng mở của tâm mình rồi đó.Một kinh nghiệm tương tơ. với sư. buông bỏ này là như khi ta đi xem hát. Khi ở trong rạp ta sẽ bị cuốn phim hấp dẫn thu hút vào cốt truyện, và khi xem xong ta bước ra ngoài. Ta có một cảm giác rằng thư.c tại đã đột ngột thay đổi, một kinh nghiệm thức tỉnh nhỏ bé :" , thì ra đó chỉ là một chuyện phim!" Nhưng còn cuốn phim trong tâm của ta thì sao, bao giờ ta mới chịu bước ra ngoài? Mỗi giây phút khi ta tỉnh giác và ý thức đươ.c những gì đang xãy ra, sẽ là những giây phút giác ngộ trong đời mình. "À, đúng rồi, đó chỉ là một tư tưởng mà thôi. Chẳng phải là một chuyện gì ghê gớm như mình nghĩ!" Trong giây phút ấy tất cả sẽ bừng mở. Chúng ta cũng có thể kinh nghiệm đươ.c sư. chấm dứt của khổ đau bằng một cách khác, khi ta đạt đến trình độ gọi là "bình thản trước mọi sư. thành tựu." Một tâm tĩnh lặng thì bao giờ cũng sẽ vững vàng và quân bình trước bất cứ những việc gì xãy đến. Chúng ta sẽ cảm thấy thư thái và cởi mở trước sư. tha(ng trầm của mọi vật. Một tâm trầm tĩnh thì sẽ không bao giờ phản ứng một cách quá khích. Trạng thái này cũng gần giống như tâm của một người đã hoàn toàn giác ngộ . Vì thế, mặc dầu ta chưa thật sự bước ra khỏi cuộc đời, chưa được giải thoát viên mãn, nhưng ta cũng vẫn có thể kinh nghiệm được chốn an lạc nầy.Chúng ta có thể kinh nghiệm đươ.c sư. chấm dứt khổ đau bằng cách quán chiếu những hiện tương duyên sinh - nhận thức đươ.c sự vô minh, vô duyên khơ?i của chúng.

Đạo Đế

Chân lý thứ tư của Tứ Diệu Đế là Đạo Đế, hoàn tất con đường đi đến sư. giải thoát. Con đường tu tập của đức Phật dạy rất là trư.c tiếp và rõ ràng, mặc dù nó đòi hỏi một sư. phó thác và một sư. kiên gan, bền chí phi thường. Con đường tu tập ấy bao gồm sư. đào luyện trong ba lãnh vư.c. Thứ nhất là trau giồi về giới luật, không sát hạị Nếu sư. tu tập của ta không đươ.c đặt trên nền tảng của một thiện chí đối với mình và tha nhân, thì việc ấy cũng giống như là chèo thuyền qua sông mà trong khi con thuyền vẫn còn

cột chặt vào bến. Sự cố gắng của ta, cho dù có bền chí đến đâu, cũng sẽ không mang đến một quả trái nào. Chúng ta cần phải tu tập và tôi luyện khả năng sống chân thật và thanh liêm của mình.Việc thứ hai chúng ta cần trau dồi là phát triển na(ng lư.c, định lư.c, và sư. tỉnh giác. Đây là những công cụ của thiền quán và của sư. sống, có khả năng làm cho ta tỉnh thức. Không có những yếu tố ấy, chúng ta cả đời sẽ chỉ hành động theo những tập quán, thói quen tích tụ lâu đời, lâu kiếp của mình mà thôi! Hai sư. trau luyện ấy sẽ làm nền tảng cho sư. phát sinh của tuệ giác. Tuệ giác để nhìn thấy đươ.c sư. vô thường một cách rõ ràng, thấy đươ.c tính chất bị điều kiện chi phối của mọi hiện tươ.ng, biết đươ.c rằng bất cứ việc gì hễ có sanh thì phải có diệt. Khi chúng ta quán chiếu chúng một cách thẩm thấu, chúng ta sẽ không còn bám víu nữa, và khi ta đã không còn bám víu nữa thì mọi khổ đau tự nhiên sẽ chấm dứt.

(Hết)

Joseph Goldstein
Nguyễn Duy Nhiên dịch

WP: Trí Đạt


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2018(Xem: 8000)
Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng “trả lương” cho các con Thái Hà Books măng non vì chép và thuộc kinh Vu lan báo hiếu Tôi là một cô gái học trường đại học nông nghiệp, ấy thế mà lại mê sách vô cùng. Tôi rất thích đọc sách và đã xin vào công ty sách Thái Hà thực tập. Để rồi tôi được giữ lại làm việc và đã làm được mấy năm rồi. Hôm nay tôi muốn chia sẻ một câu chuyện hay và thấm đẫm trí tuệ và yêu thương ở công ty chúng tôi. Chuyện này tuy nhỏ nhưng ý nghĩa rất lớn và tác động đến rất nhiều người, kể cả người lớn. Tôi ngồi gõ lại để mong có nhiều cơ quan, nhà trường, doanh nghiệp và gia đình nghiên cứu để học theo. Chuyện là một tháng trước, cả công ty nhận được thông báo qua email của Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch Thái Hà Books rằng thầy quyết định “trả lương” cho các con của các bố các mẹ Thái Hà Books chép kinh Vu lan báo hiếu. Thầy Hùng muốn các con chép để hiểu lời kinh, muốn các con hiểu lời dạy của Đức Phật để yêu quý và biết ơn bố mẹ mình. Thầy muốn các con thành
30/01/2018(Xem: 11218)
Kính thưa chư Tôn Đức, chư Pháp hữu và quý vị hảo tâm Từ thiện. Trong tâm niệm hành thiện: '' Phụng sự chúng sanh là thiết thực cúng dường chư Phật '', hôm nay (29 .Jan-2018) chúng tôi vừa thực hiện xong một số giếng cần giục (Well hand-pump) cho những ngôi làng nghèo vùng núi Khổ Hạnh Lâm , Nalanda & khu vực lân cận Bồ Đề Đạo Tràng, thành Già Da- Gaya tiểu bang Bihar India. Xin chia sẻ cùng quí vị một vài hình ảnh tường trình.
19/01/2018(Xem: 9152)
Vẻ đẹp vừa nên thơ, vừa dân dã của những ngôi làng bập bềnh trên sông nước luôn làm nao lòng khách du lịch. Dưới đây là 10 ngôi làng nổi tuyệt đẹp trên thế giới. 1. Làng Ko Panyi, Thái Lan Ko Panyi là một ngôi làng đánh cá ở tỉnh Phang Nga, Thái Lan. Ngôi làng gồm 200 gia đình sống trong các ngôi nhà được xây trên những cột trụ lớn. Mặc dù lượng khách du lịch tăng đáng kể thời gian gần đây, người dân ở Ko Panyi vẫn sống chủ yếu dựa vào ngành công nghiệp đánh bắt hải sản bởi khách du lịch chỉ đến nhiều vào mùa khô. Đặc biệt, ngôi làng còn có hẳn một sân bóng đá. Bắt đầu từ mùa World Cup 1986, cư dân trong làng đã xây dựng sân bóng từ những mảnh gỗ và bè đánh cá cũ để làm chỗ vui chơi cho lũ trẻ.
18/01/2018(Xem: 11051)
Cậu bé vô gia cư và tấm bằng ĐH Harvard. Chỉ có một bàn tay với 2 ngón tay, Sơn đã bắt đầu hành trình của một đứa trẻ vô gia cư không biết đọc biết viết, rồi trở thành sinh viên trường đại học danh tiếng bậc nhất thế giới.
16/01/2018(Xem: 6399)
Qua Giáo Lý Duyên Khởi của đạo Phật thì mọi vấn đề xảy ra trên cõi đời này đều do nhiều nhân nhiều duyên họp lại mà thành, để rồi sau đó cũng do nhiều nhân nhiều duyên mà nó biến đổi thành cái khác. Nhìn chung, con người sinh ra đời không ai giống ai. Có người sinh ra mang một hình hài cân đối xinh đẹp. Có người sinh ra đầy đủ sáu căn như mọi người, nhưng không có nét đẹp xuất sắc. Cũng có người sinh ra không được may mắn vì thiếu mất căn này, hay căn nọ. Có người sinh ra thông minh, hoạt bát, lanh lợi, nhưng ra đời lại thất bại lên thất bại xuống. Có người sinh ra trông khù khờ, chậm chạp nhưng lại dễ dàng thành công dù không tranh giành đoạt lợi. Có người sinh ra trong một gia đình giàu có, nhưng lại có người cả đời sống trong cảnh nghèo khổ. Thử hỏi do đâu mà lại có nhiều tình trạng khác biệt như thế?
15/01/2018(Xem: 7597)
Đầu năm 2018 đón bạn đạo từ khắp thế giới đến Việt Nam hành hương, Thường thì chúng ta chỉ thấy người Việt Nam (và cá các nước khác trên thế giới) đi hành hương đến đất Phật ở Ấn Độ, Nepal, Myanmar,… chứ mấy khi nghe tin các bạn quốc tế, nhất là Âu Mỹ hành hương về các miền đất Phật tại Việt Nam. Ấy vậy mà trong những ngày đầu năm mới 2018 này chúng tôi lại có vinh dự đó các bạn Phật tử đến từ Mỹ, Brazil, Israel, Ấn Độ, Canada,… tại Việt Nam. Các bạn ấy đến Việt Nam không phải để đi tham quan và ngắm những cảnh đẹp của đất nước chúng ta mà để hành hương về những miền đất Phật tại Việt Nam. Thật là thú vị.
14/01/2018(Xem: 7601)
Hầu hết các tôn giáo đều có Giới và Luật để tổ chức tồn tại trong trật tự, bảo về tinh đoàn kết nội bộ, riêng Phật giáo, Giới và Luật không chỉ đơn thuần như thế, còn mang tính “khế thời, khế cơ và khế lý” bàng bạc tinh thần dân chủ mà gần 3000 năm trước, xã hội con người lúc bấy giờ trên tinh cầu còn bị thống trị bởi óc phong kiến và nặng về giai cấp.Vậy Giới và luật của Phật giáo như thế nào? Theo Đại tự điển Phật Quang định nghĩa Giới là: Tấng lớp, căn cơ,yếu tố, nền tảng, chủng tộc…
11/01/2018(Xem: 8627)
Trầm cảm là hiện tượng đang thấy rõ trong giới trẻ tại Việt Nam, và cả ở khắp thế giới. Các bản tin trong mấy ngày qua cho thấy một nỗi nguy: Ngành y tế Việt Nam báo động vì hiện tượng trầm cảm lan rộng trong giới trẻ... Trong các nguyên nhân chính được nhận ra là do nghiện Facebook và nghiện điện thoại.
10/01/2018(Xem: 9099)
Tôi xuất gia gieo duyên (hay: Về vai trò của giới tinh hoa và về sự cống hiến cho xã hội) Tạp chí Tia Sáng số Xuân năm nay có chủ đề “vai trò của giới tinh hoa trong thời kỳ đổi mới”. Trong thư mời viết bài, ban biên tập đề dẫn rằng “chủ đề này được đặt ra trong bối cảnh thế giới vừa diễn ra những sự kiện, trào lưu quan trọng (Brexit, Trumpism), trong đó, tiếng nói của người trí thức và giới tinh hoa trở nên lạc lõng trước sự thắng thế của những tư tưởng dân túy thực dụng và ngắn hạn được số đông công chúng ủng hộ.” Nếu nói về vai trò (câu hỏi Làm gì?), tôi nghĩ vai trò của giới tinh hoa trong thời này không thay đổi cơ bản
19/12/2017(Xem: 10012)
Hôm nay là ngày 28 tháng 11 năm 2017 tại chùa Long Phước, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Chúng tôi xin thay mặt chư Tôn đức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, xin trân trọng kính chúc H.T Viện chủ, quý vị Quan khách, cùng bà con hiện diện hôm nay vô lượng an lành. Sau đây, chúng tôi xin chia sẻ đến bà con một vài điều, xin quý vị hoan hỷ lắng nghe. Thưa quý vị! Trong Văn học Việt Nam, Tổ tiên Việt Nam chúng ta có nói rằng: “Lênh đênh qua cửa Thần phù, khéo tu thì nổi vụng tu thì chìm”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]