Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

UY NGHI GIỚI HẠNH TRONG PHẬT PHÁP

28/10/201004:05(Xem: 7860)
UY NGHI GIỚI HẠNH TRONG PHẬT PHÁP

UY NGHI GIỚI HẠNH TRONG PHẬT PHÁP
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị

ducphapvuong-001-contentTâm nguyện lớn nhất của tôi là tất cả mọi người sống trong hòa hợp tương thân tương ái”.
Kính lễ Kim Cương Thượng Sư Tôn!
Đấng Pháp Vương Drukpa tôn quý,
Ngài là chủ hết thảy Đạo sư,
Mang phúc lợi nhiêu ích hữu tình.
Dưới gót sen cao quý quang vinh,
Dốc lòng thành con nguyện quy kính!

Đức Long Thọ Bồ Tát dạy rằng: “Giới luật, giống như căn bản của thế và xuất thế, là nền tảng của hết thảy trí tuệ”.

Docác hành giả tha thiết thỉnh cầu nên Pháp Vương đã tùy căn duyên viết ra các chương luật uy nghi giới hạnh khai, giá, trì, phạm dễ hành trì dưới đây cho những Phật tử phúc duyên hy hữu theo giáo pháp của Ngài.

Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách, bao gồm bảy loại giới nguyện biệt giải thoát, dẫn dắt chúng ta trên nhiều đạo lộ khác nhau để đạt đến giải thoát. Giới nguyện tinh túy nhất là:

1

Phải từ bỏ việc làm hại người khác, ý muốn làm tổn hại người khác bởi vì chúng dẫn tới những ác hạnh, đây là pháp thực hành của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Pháp tu tập này là nền tảng của tất cả các thừa.

2

Luôn học cách giúp đỡ mọi người và khôngngừng tu tập, trưởng dưỡng Bồ Đề Tâm tôn quý vì pháp tu trì chính này là con đường chung của Đại thừa. Đây là cốt tủy để thực hành thành công bất kỳ một Pháp nào và tiêu trừ si ám trên con đường đạo.

Điều tối quan trọng là thiện nam tín nữ,từ trẻ đến già, những người đã phát nguyện thực hành Phật Pháp và được tạo nguồn cảm hứng từ chính niệm, phải tinh tiến thực hành hai pháp trênvà không được sao nhãng bởi những hoạt động trần tục ích kỷ và vô nghĩa.

Điều trọng yếu để tu tập tối thượng đạo đầy ý nghĩa nhiệm màu là phải có động cơ thanh tịnh và hành động chân chính.

3

Dựa trên nền tảng sự hiểu biết chân thựccủa mình, bạn phải bày tỏ sự thân thiện, tình yêu thương và sự tôn kínhlên Bậc Thầy - người dìu dắt hướng đạo mang lại cho cuộc đời bạn trở nên đầy ý vị giải thoát, và đối với Phật tử, Tăng đoàn là những thiện tri thức đã ủng hộ, nâng đỡ bạn tu tập thực hành Phật Pháp.

Thượng sư tôn quý, người khai thị tự tính tâm cho bạn thông qua con đường đạo giải thoát thông thường và siêuviệt trong truyền thống Kim Cương Thừa, Ngài chính là Dharmakaya (Pháp thân) hiện thân trong hình tướng loài người để hướng đạo dẫn dắt chúng ta tới bến bờ giải thoát. Ngài đã dìu dắt hướng đạo chúng ta theo chính đạo, Ngài từ bi hơn tất cả chư Phật và Bồ Tát. Do đó, điều tối quan trọng cần thấu hiểu rằng, bạn phải luôn nhu hòa nhẫn nhục theo ‘ba cách’để Ngài hoan hỷ, đó là thực hành tâm linh, thân phụng sự và cúng dường phẩm vật với chí tâm bất thoái. Đây là tinh yếu của tu tập Kim Cương Thừa.

4

Những hành giả thiện nam, tín nữ thường trú ở Trung Tâm nên thường xuyên tham gia tu tập thực hành vào buổi sángvà buổi tối, tụng kinh và các thiện hạnh hàng ngày; thiện hạnh tu tập Nyungnay (Bát Quan Trai Giới) được thực hiện vào những ngày rằm và mùng một, mùng tám hàng tháng.

5

Đặc biệt là lễ cúng Ganachakra nên được cử hành vào buổi sáng mùng 10 với pháp thực hành GuruYoga và vào tối ngày 25 với pháp thực hành Dakini.

6

Nói chung, bạn nên chí thành tha thiết, xả thân hành trì với bất kỳ một phương pháp tu chuyển hóa tâm thức nào, cụ thể là bốn pháp tu mở đầu cho tới khi chứng đạt Giác Ngộ. Nếu nghĩ rằng, chỉ thực hành một vài lần bốn pháp tu mở đầu là đủ thì thực sự là ngộ nhận và sai lầm.

7

Những Pháp hữu tri thức nên yêu thương cảm thông, tận tâm chia xẻ và tương thân tương ái. Những tập khí xấu phải được từ bỏ như: Cố chấp vào những tà kiến, buông lung nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói ác khẩu, nói thêu dệt.

8

Mọi gốc rễ của lầm lỗi là do khẩu nghiệp tạo nên. Do vậy, điều quan trọng phải chính niệm, kiểm soát được khẩu nghiệp trước công chúng.

9

Sự quá thân cận gần gũi với người khác có thể làm kích động ngọn lửa ái kết và hận thù. Bởi vậy, duy trì khoảngcách đúng mực ngay từ ban đầu là rất quan trọng.

10

Cho dù bạn tham gia vào những hoạt động tâm linh hay thế tục thì trước tiên bạn phải soi xét kỹ lưỡng, tường tậnđộng cơ của mình. Ngay cả khi động cơ đó không phải quá tồi nhưng bạn phải xét xem hành động đó có mang lại lợi ích cho người khác hay không. Bạn nên giác tỉnh rằng, việc tham gia vào bất cứ hoạt động nào mà không có sự quán chiếu, suy xét là dấu hiệu của thiếu hiểu biết và si mê.

11

Đừng nên cô phụ tự tính của chính mình với sự ngã mạn dựa trên một chút kiến thức thiển cận. Thay vào đó, bạn nên tri ân phụng sự Đạo sư- người đã soi rọi con đường chính đạo và phụng sự cả những Pháp hữu của mình. Sau khi đã phụng sự được một chút cho Phật Pháp, Tôn Sư, Bằng hữu, Giáo thọ…bạn không nên khoe khoang về những gì bạn đã làm mà nên tùy hỷ khiêm cung.

12

Những người vốn thiếu trí tuệ và trình độ giáo dục hạn chế thì không nên tự ti và mất niềm tin, mà hãy nhiệt thành tham gia vào thiền định hay nhiều những thiện hạnh khác để trưởng dưỡng việc thực hành tâm linh của mình, tuy nhiên phải nhớ rằng, luôn tuân thủ mà không được vi phạm giáo huấn của Căn bản Thượng sư. Nếu những hoạt động như vậy không làm người khác an vui thì thật là đáng tiếc.

13

Khi thấy những Pháp hữu khác có trình độcao hơn, bạn nên tùy hỷ chứ không được ghen tị. Thậm chí ngay cả khi bạn không có ý muốn ca ngợi người bạn đó một cách cởi mở, thì bạn cũng nên giữ yên lặng và không nên phê bình chỉ trích, điều này là rất quan trọng.

14

Trong mọi hoàn cảnh, bạn nên luôn hồi quang tự kỷ, khắc kỷ khoan tha, trau dồi giới hạnh, hoàn thiện thân tâm.Chính cái ý nghĩ chỉ trích người khác là ngọn lửa để thiêu trụi công đức của chính bạn. Vì vậy hãy từ bỏ nó.

15

Khen mình, chê người là nhân của động cơchấp thủ bè đẳng và thù hận, nó là trở ngại đối với mục đích chí hướng của Bậc giác ngộ và hoàn toàn trái ngược với việc tu tập chính Pháp. Vì vậy, hãy từ bỏ những cách nói như vậy.

16

Nếu một người nào đó buông lung phóng dật trong lời nói thì tốt hơn hết bạn không nên phê bình chỉ trích gì, nếu không thể thực hành tâm linh thì bạn hãy trở lại nơi ở và ngủ một giấc thật sâu.

17

Hãy luôn hồi quang phản chiếu chính mìnhvà tham gia vào các hoạt động Phật Pháp. Tư tưởng bạn không nên bị chi phối bởi “Tám Món Bận Tâm Thế Tục” và buông lung trong sự lừa dối, xảo trá, ngộ nhận… Đây là điều tối quan trọng.

18

Ngoại trừ những người mà nội chứng của họ về ý niệm Đại từ, Đại bi và Bồ Đề Tâm đã được tán thán bởi một đạo sưphẩm hạnh thì Pháp nhũ của các Ngài thực sự đem lại giải thoát an lạc cho chúng sinh, còn những Giảng Sư chỉ giảng pháp dựa trên sự hiểu biết hạn hẹp theo nghĩa đen thì không những hoàn toàn tổn hại cho chính họ màcòn làm cho những người khác si mê lầm lạc. Một việc làm như thế sẽ gâytổn hại nhiều hơn lợi lạc. Bởi vậy không cần thiết phải vội vàng để có được địa vị hay danh hiệu Khenpo hay Lama.

19

Tóm lại, trong bất cứ sự tu tập Phật Pháp nào nên hướng tới mục đích là trau dồi trưởng dưỡng tâm mình. Việc thực hành Pháp với mục đích để có được danh tiếng và sự tôn trọng không phải là việc thực hành chính Pháp mà chỉ dẫn đến quả báo đọa lạc tam đồ.Vì vậy, việc hiểu được chính tà và thực hành chính đạo một cách đúng đắn là đạo của Bậc Hiền Trí.

20

Những Phật tử thiện nam tín nữ đang phụng sự ở Trung Tâm nên chắp táp với động cơ thanh tịnh, với tín tâm chí thành dâng hiến, sự chứng minh của Tam Muội Gia Giới cùng với tâm hỷlạc.

21

Trong trường hợp thân tâm đau ốm bệnh tật, thì nên đi chữa bệnh hoặc về nhà tĩnh dưỡng nghỉ ngơi.

22

Gây ra sự bất an và hiểu lầm giữa những Pháp hữu, Phật tử và Tăng Đoàn, từ trẻ đến già thông qua những lời phù phiếm buông lung thêu dệt, đơn giản chỉ bởi những tâm nguyện của mình chưa được viên mãn, sẽ tích lũy vô số ác nghiệp. Do đó, phải tinh tiến nỗ lực từ bỏ những ác hạnh như vậy.

23

Thịt, rượu, thuốc lá, thuốc phiện…không những trái với mục đích giải thoát của Phật Pháp mà còn như một lưỡi kiếm sắc cắt vụn cơ thể của bạn. Bởi vậy, những ai biết trân trọng sự quý giá của thân người hãy nên tự kiềm thúc thân tâm và hạn chế sử dụng chúng.

24

Ngay cả khi bạn chưa thể hoàn toàn bỏ được chúng thì hãy nỗ lực cố gắng không sử dụng chúng trước những hình ảnh, biểu tượng của Phật, Pháp, Tăng, trong những chốn thực hành tâm linh, thiền thất v.v…

25

Tóm lại, những người khoác tăng phục saukhi đã nghe và suy ngẫm về giới luật thì nên trì giữ, cố gắng nỗ lực từbỏ những hành động phi Pháp; không được tự cao tự đại và phải luôn tàm quý khiêm cung, không nên tranh giành địa vị và danh tiếng.

26

Những hành giả đạo Phật nên từ bỏ mười bất thiện nghiệp và hãy luôn cố gắng kiểm soát ‘tam nghiệp’ (thân, khẩu,ý) trong mọi thời khắc để cuộc sống vô thường ngắn ngủi này đầy ý nghĩa.

Mặc dù, sự hiểu biết tâm linh còn chưa tỏ tường rốt ráo, tuy nhiên, tôi là người đã xa lìa tất cả bất tịnh nhiễm ô của ‘Tám Món Bận Tâm Thế Tục’, xin viết phẩm uy nghi giới hạnh này vì lợi ích của những hành giả có thiện nguyện cao quý thực hành PhậtPháp.

Vua Pháp Dawoe Shonnu (Đức Gampopa) đã dạy:

“Mặc dù nhiều người có hình tướng là những hành giả Pháp với tư tưởng thanh tịnh thực hành Pháp nhưng cũng cónhững hành giả còn bị chi phối bởi ác hạnh của ‘Tám Món Bận Tâm Thế Tục’, đó là nhân của địa ngục”.

Cầu nguyện cho những thiện duyên hành giả đã thể nhập vào cửa giải thoát, sẽ được nâng đỡ bởi những tư tưởng thiện hạnh cao quý, xua tan đi những tà kiến phi Pháp!

Cầu nguyện cho họ thấy được chân giải thoát Pháp!

Để viên mãn lời thỉnh cầu tha thiết của Pháp hữu Drukpa Lama Nawang, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII đã rủ lòng từ bi viết phẩm uy nghi giới hạnh này xuất phát từ dòng tâm thức của Ngài vào ngày 15 tháng 9 năm 2000.

Nguồn: IDP Website: drukpa.com
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4949)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5091)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4444)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4119)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4702)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4164)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3610)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6888)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6965)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5060)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]