Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mầu sắc Pháp Phục

19/10/201002:05(Xem: 9410)
Mầu sắc Pháp Phục

ChuTonDuc (00)
MẤU SẮC PHÁP PHỤC
Thích Nguyên Hiệp

Y phục được xem là một trong bốn vật dụng thiết yếu đối với tu sĩ Phật giáo. Là vật dụng thiết yếu vì y phục giúp che kín thân thể, giúp cơ thể tránh khỏi sự xâm hại của "nóng, lạnh và ruồi muỗi," chứ không phải vì một mục đích nào khác. Nói cách khác, người xuất gia (cũng như mọi người) không thể không dùng đến y áo, chứ không dùng y áo làm thước đo cho một giá trị nào đó. Điều này hẳn nhiên không hoàn toàn đúng về sau, nhưng ít nhất nó được phản ánh trong giai đoạn đầu tiên.

Tuy nhiên, vì y áo được xem là một trong bốn vật dụng thiết yếu nên việc hình thành những giới luật liên quan là điều hẳn nhiên. Nhưng dù Luật tạng có những quy định về việc khâu, nhuộm và sử dụng y phục thì màu sắc cụ thể của y như thế nào lại không được nhắc đến.

Chúng ta không rõ vào thời ấy Đức Phật đắp y màu gì. Kinh luật không đề cập đến màu y cụ thể của Đức Phật cũng như của Tăng chúng. Tuy nhiên, trong kinh Đại Bát Niết Bàn,chúng ta gặp một đoạn nói về việc cư sĩ Pukkusa, dòng tộc Mallā, đã cúng dường Đức Phật và Tôn giả Ananda hai chiếc y màu "kim sắc, vàng chói". Điều này dường như rằng y phục của Đức Phật thường có màu vàng, hay một màu tương tự như vậy, mà nó được xem là tương ứng với sắc da của Ngài (?).

Có quan điểm cho rằng, y phục của Tăng sĩ thời ấy có màu vàng nghệ, hoặc màu nâu vàng (hay vàng cam), là những màu sắc y áo mà du tăng của các giáo phái khác thường sử dụng, bởi vì những sắc màu này phù hợp với các du sĩ rày đây mai đó, đầu đội trời chân đạp đất và đẫm mình với gió bụi. Và thêm một lý do nữa khiến người ta suy luận như vậy là do sự phổ biến của truyền thống dùng cây mít làm thuốc nhuộm, mà y áo được nhuộm bằng chất liệu này thường cho ra màu vàng. Truyền thống nhuộm y theo cách này hiện vẫn được một số Tăng sĩ theo truyền thống Theravada duy trì. Bên cạnh đó, giả thiết y có màu vàng còn đến từ truyền thống nhuộm y bằng các loại rễ, lá hay vỏ cây, nhưng có bổ sung thêm củ nghệ. Tuy nhiên, chúng ta không tìm thấy bằng chứng cho những điều này trong các kinh luật.

Trong Samantapasadika, một luận giải về Luật tạng do Phật Âm (Buddhagosha) sưu tập và dịch từ tiếng Sinhala sang Pali vào thế kỷ thứ V, chúng ta bắt gặp một đoạn thế này: "Đức Phật đưa cánh tay phải ra khỏi chiếc y màu đỏ, nói với những người muốn xuất gia với Phạm âm, ‘hãy đến đây, ông sẽ sống đời xuất gia để chấm dứt khổ đau’. Vừa sau khi kết thúc những lời này, thân tướng cư sĩ biến mất, thân tướng Tăng sĩ xuất hiện. Một lễ thọ giới hoàn tất. Những người này đầu sạch tóc, khoác cà-sa (kasava), mặc một y, khoác một y (bên ngoài) và đắp một y trên vai". Đó là một đoạn chúng ta thấy có nhắc đến màu y của Đức Phật: màu đỏ.

Tuy nhiên, căn cứ vào những trình bày trong Luật tạng liên quan đến y phục của Tăng, chúng ta thấy rằng người xuất gia thời ấy không sử dụng thuần nhất một màu sắc, bởi vì y áo tùy thuộc vào loại cây làm thuốc nhuộm mà mỗi vị Tăng sử dụng. Nhưng có một điều chúng ta có thể biết là màu sắc y áo của Tăng sĩ thời ấy thường có màu tối, sẫm, và là một sắc màu không đẹp. Điều này có thể biết được qua những quy định về các loại thuốc nhuộm mà Đức Phật cho phép sử dụng. Và nó cũng được thể hiện ngay nơi việc dùng chữ kasava (S. kasaya) để chỉ cho y áo; kasava có nghĩa là sự úa màu, bạc màu, hay như thường được gọi là "hoại sắc".

Tứ Phần Luật (Tập 5) có nêu ra một vài cách thức nhuộm y, mà nếu nhuộm theo cách thức này thì y hẳn phải có màu sẫm và xấu, "Nếu y bị bay màu thì nên nhuộm lại, hoặc nhúng bùn, hay dùng vỏ cây đà-bà, vỏ cây bà-trà, kiền-đà-la, tất bát, a-ma-lặc, hoặc dùng gốc cây, hay cỏ thiến để nhuộm".(HT. Đổng Minh dịch). Trong Đại Phẩm (Nam truyền), chúng ta thấy có sáu loại thuốc nhuộm được Đức Phật cho phép sử dụng nhuộm y, "Này các Tỳ kheo, ta cho phép được sử dụng sáu loại thuốc nhuộm. Đó là thuốc nhuộm làm từ rễ cây, thuốc nhuộm làm từ thân cây, thuốc nhuộm làm từ vỏ cây, thuốc nhuộm làm từ lá cây, thuốc nhuộm làm từ bông hoa, thuốc nhuộm làm từ trái cây".Nhìn chung, dù y được nhuộm bằng loại thuốc nhuộm làm từ chất liệu gì trong sáu loại này thì màu sắc của y thường không phải màu sáng.

Y cần phải nhuộm cho sẫm màu trước hết để phân biệt với y áo mà người tại gia thuở ấy thường mặc là màu trắng, và thứ nữa nó cần phải làm cho "hoại sắc" để không gây nên sự yêu thích nơi người mặc và người nhìn, tránh sự tham chấp có thể xảy ra! Và việc Tăng sĩ mặc y sáng màu cũng là điều bị xã hội thời ấy phê phán. Trong Đại Phẩmcó nhắc đến trường hợp các Tỳ kheo mặc y "màu ngà voi" và bị dân chúng phê bình.

Đó là những thông tin về màu sắc của y mà ta tạm có. Còn về kiểu thức của y, dựa vào những trình bày trong Luật tạng, chúng ta thấy rằng, y của người xuất gia thời ấy thường là một miếng vải hình chữ nhật (hoặc gần như vậy), và không được để nguyên mà phải được ghép thành từ nhiều mảnh rời. Mặc y để nguyên miếng là điều không phù hợp với các Tăng sĩ của nhiều giáo phái chứ không riêng gì Tăng sĩ Phật giáo.

Trong giai đoạn đầu, việc sử dụng y được khâu ghép lại từ nhiều mẩu vải chưa được Đức Phật quy định; Tăng chúng mặc bất cứ loại y áo nào mà họ kiếm được, hoặc nguyên tấm, hoặc do nhiều mảnh ghép thành. Nhưng về sau, khi dân chúng phê bình việc các Tỳ kheo mặc y nguyên tấm, Đức Phật nhân đó mới dạy rằng nên mặc y cắt, tức y do nhiều mảnh vải ghép thành. Và ý tưởng may y từ những mảnh vải vuông cân đối đã xảy ra sau đó, khi Đức Phật cùng với Tôn giả Ananda từ Dakkhināgiri quay trở lại Rājagaha và nhìn thấy những ô ruộng vuông vức bên đường (xem thêm Đại Phẩm,hoặcTứ Phần Luậtquyển V). Điều mà về sau hình thành một tên gọi khác cho y là "phước điền y". Và với tên gọi này, y phục của người xuất gia đã có thêm "giá trị" mới: nơi người cư sĩ có thể gieo trồng những hạt giống phước!

Như vậy, y của các Tỳ kheo thường có hình chữ nhật với những mảnh vải ghép lại. Việc mặc y do nhiều mảnh vải ghép lại như vậy, một mặt do vì các vị du sĩ thời ấy thường nhặt những mảnh vải ở các nghĩa địa và đống rác rồi khâu kết thành (để rồi nó trở thành một quy ước), và mặt khác để nó "phù hợp với sa môn, và để những kẻ đối nghịch nhìn thấy không khởi tâm mong muốn" (Đại Phẩm).

Theo truyền thống, một vị Tăng khi khoác y thường để trần một vai, cách thức biểu lộ lòng tôn kính, đặc biệt khi thưa chuyện hay học hỏi với một vị trưởng lão. Điều này cũng là một quy ước của xã hội thời ấy. Việc mặc y để trần vai phải, thực ra, không phải là truyền thống riêng của Phật giáo, bởi vì khi Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) đến gặp Đức Phật để xin gia nhập Tăng đoàn, ông cũng đắp y để trần vai phải. Người Ấn Độ cổ đại có truyền thống mặc áo để trần vai phải khi gặp những bậc trưởng lão, những đạo sư hay đến các thánh địa.

Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, dưới sự tác động của một nền văn hóa đặc thù ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Khổng giáo, hình thức đắp y để trần một vai đã không còn phù hợp đối với các Tăng sĩ khi xuất hiện ở quốc gia này. Ngược lại với văn hóa Ấn, người đắp y để trần vai không được xem biểu lộ sự lịch thiệp ở Trung Quốc. Người Trung Quốc xem một người ăn bận kín thân là biểu hiện của sự tôn trọng. Và do đó y phục của Tăng đã có sự thay đổi. Bên cạnh đó, việc thay đổi kiểu thức y phục còn chịu sự ảnh hưởng cách ăn mặc của các tu sĩ Lão giáo, và cả điều kiện khí hậu. Việc sử dụng áo hậu dài có tay rộng là do ảnh hưởng kiểu áo của tu sĩ Lão giáo. Hẳn nhiên các tu sĩ Phật giáo đã có sửa đổi, khi khoác thêm bên ngoài chiếc y có những ô (điều), một cách vừa sáng tạo để phù hợp với bối cảnh văn hóa mới, nhưng cũng giữ lại nét truyền thống riêng của mình.

Nhưng khi y áo có sự thay đổi để phù hợp với bối cảnh văn hóa mới, thì cách sử dụng ba y của Tăng sĩ theo Phật giáo Đại thừa đã không còn giống với truyền thống ban đầu; và những nghi thức liên quan đến y cũng đã được quy định lại: ba y được sử dụng cho những trường hợp cụ thể, và chúng còn liên quan đến vấn đề hạ lạp và vị trí của người sử dụng.

Khi đã trở thành một vật không chỉ dùng "che chở nóng lạnh" như thời kỳ đầu, y ít nhiều trở thành vật mang tính biểu tượng và được gắn thêm những giá trị khác. Và khi y đã có những liên hệ với lễ nghi, được quy định mặc trong những trường hợp nào thì việc hình thành nên các loại áo nhật bình là điều tất yếu phải có. Nhưng việc sáng tạo thêm những loại áo nhật bình khác không chỉ vì "tam y" đã ít nhiều gắn liền với lễ nghi, còn vì các Tăng sĩ không còn thực hành truyền thống khất thực như ở Ấn Độ mà phải lao động độ nhật. Việc khoác y để lao động chân tay là điều không mấy phù hợp. Và ở đây màu sắc của từng loại y áo lại có sự khác nhau, để cho nó tương hợp với từng hoàn cảnh.

Các nước theo Phật giáo Đại thừa phần lớn tiếp nhận Phật giáo qua cửa ngõ Trung Quốc, và rồi chừng mực nào đó đã chịu ảnh hưởng một vài nét đặc trưng của Phật giáo nước này. Khi một vị Tăng Trung Hoa đến một nước khác truyền đạo, người đệ tử xuất gia của vị này không thể không dùng kiểu pháp phục của thầy mình (ít nhất là vào lúc đầu). Chính lý do này mà Tăng sĩ các nước theo Phật giáo Đại thừa có pháp phục phần nào giống với pháp phục Tăng sĩ Trung Quốc, dễ thấy nhất là cách choàng y ra ngoài áo hậu. Nếu nhìn pháp phục của Tăng sĩ Hàn Quốc, chúng ta thấy nó không khác mấy pháp phục của Tăng sĩ Trung Quốc. Dù về sau người Hàn đã có sự thay đổi, chẳng hạn như họ không giữ nguyên kiểu hậu dài của Tăng sĩ Trung Quốc, và y cũng có một vài "điều chỉnh", nhưng trên căn bản là thừa kế truyền thống pháp phục Trung Quốc.

Nhật Bản đầu tiên tiếp nhận Phật giáo từ Hàn Quốc, và sau đó từ Trung Quốc, pháp phục do đó ít nhiều chịu ảnh hưởng pháp phục Tăng sĩ Trung Quốc. Tuy nhiên, Tăng sĩ Nhật thường rất có tính sáng tạo nên không dễ tiếp nhận nguyên vẹn kiểu pháp phục đó. Họ tạo ra nhiều loại y áo khác nhau, cả y áo dùng trong nghi lễ và cả y phục thường nhật, số tên gọi vượt lên con số chục.

Về màu sắc, y áo của Tăng sĩ theo Phật giáo Đại thừa không có sự đồng nhất. Ngay ở Trung Quốc, không phải tất cả Tăng sĩ đều có chung màu sắc y phục: các loại màu thường được sử dụng là vàng, nâu vàng, nâu, xám, xanh, đen và xám đen. Vào đời nhà Đường, còn xuất hiện thêm một loại y tía, là y nhà vua ban cho những vị cao Tăng.

Y áo Tăng sĩ Hàn Quốc thường có các màu: xám, nâu vàng, hoặc xanh (Tăng sĩ Hàn Quốc thường khoác y màu nâu vàng, hậu và y phục thường nhật có màu xám hoặc lam). Tăng sĩ Nhật thì thường có y màu vàng, xám hoặc đen, và cũng có thêm y tía, một loại y có nguồn gốc từ Trung Quốc. Nhưng ở Nhật màu sắc y phục còn liên quan đến vị trí và cấp bậc của người mang nó. Ví dụ những người tập sự (như các chú tiểu ở Việt Nam) thường chỉ mặc y phục màu đen, và họ chỉ được mang y vàng sau khi đã thọ giới. Ở Nhật, màu sắc pháp phục còn tùy thuộc vào vị trí của từng ngôi chùa. Ví dụ như chỉ những chức sắc tại các ngôi chùa lớn mới được khoác y màu tía. Màu sắc pháp phục ở Nhật cũng liên quan đến vấn đề bộ phái; và những tranh luận về màu sắc pháp phục đã từng xảy ra. Vào thế kỷ XIII, người sáng lập Thiền phái Tào Động, Đạo Nguyên (1200-1253), cho rằng màu hoàng thổ là màu phù hợp nhất đối với y áo, tuy nhiên các màu khác như xanh, vàng, đỏ, đen, tía và màu kết hợp tất cả những màu này, cũng được phép sử dụng.

Chúng ta thường nghe nói chư Tăng Nam tông khoác y theo truyền thống thời Đức Phật. Có thể điều đó đúng qua kiểu đắp y để trần một vai, nhưng vì màu sắc do không có sự đồng nhất ngay từ buổi đầu nên y phục Tăng sĩ ở các nước Phật giáo Theravada không hoàn toàn có màu giống nhau. Ở Srilanka, màu y phổ biến nhất là nâu vàng (hoặc màu hạt dẻ). Điều này có thể vì ở Srilanka trong quá khứ có nhiều loại cây cho màu sắc này; và màu này vẫn còn thịnh hành cho đến ngày hôm nay. Trong khi đó màu y của các sư Miến Điện thường có màu nâu đỏ; khác với với Thái Lan phần lớn y áo có màu vàng nghệ.

Và ở một vài nước Phật giáo Theravada, các Tăng sĩ trong cùng một xứ đôi khi vẫn không có một màu y áo đồng nhất. Dù không có những quy định được đặt ra, nhưng các Tăng sĩ sống trong rừng thường mặc y màu nâu vàng, trong khi các Tăng sĩ ở thành thị thường mặc y màu vàng nghệ. Điều này thường bắt gặp ở Thái Lan.

Như vậy chúng ta thấy, dù Nam hay Bắc tông, kiểu thức và màu sắc của y không có một sự đồng nhất hoàn toàn. Và chính sự không đồng nhất này, Phật giáo mỗi nước đã tạo nên một nét riêng của mình qua pháp phục. Và cũng dựa vào nét riêng này, chúng ta có thể nhận ra một vị Tăng hay Ni đến từ một đất nước nào đó qua kiểu thức và màu sắc y phục mà vị ấy mặc.

Với Phật giáo Việt Nam, cũng như Phật giáo Nhật và Hàn Quốc, y hậu của Tăng sĩ ít nhiều ảnh hưởng kiểu y áo của Tăng sĩ Trung Quốc. Tuy nhiên về màu sắc, Tăng sĩ Việt Nam hầu như đều sử dụng màu vàng cho y hậu, có số ít sử dụng y đỏ (thường là các bậc trưởng lão). Và như vậy về cơ bản chúng ta có sự đồng nhất, tuy nhiên do mức độ đậm nhạt của màu sắc y hậu nên ở nước ta chỉ có một sự đồng nhất tương đối mà thôi. Bên cạnh y hậu, Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam còn có chiếc áo nhật bình (hoặc áo tràng xiên) của riêng mình. Chiếc áo nhật bình màu nâu là một nét khá đặc trưng của tu sĩ Phật giáo Việt Nam về y phục, tạo cho người tu sĩ Việt Nam có một nét "riêng" nào đó. Và với chiếc áo nhật bình nâu (sồng) này, Tăng sĩ Việt Nam đã tạo nên được một truyền thống riêng có trong pháp phục của mình!

Phật giáo đã trải qua hơn 2.500 năm, có mặt ở nhiều quốc gia và tồn tại dưới nhiều nền văn hóa dị biệt, do đó Phật giáo tại mỗi xứ tất yếu có những đặc trưng riêng, và y áo là một khía cạnh. Nhưng dù người tu sĩ khoác lên mình chiếc y màu sắc và kiểu thức gì, thì y (kasava)như ý nghĩa vốn có của nó vẫn không thay đổi. Chiếc y của người tu sĩ Phật giáo biểu trưng cho sự thanh bần, giản đơn, và quan trong hơn cả là nó nối kết người mặc với vị thầy Bổn sư của mình - Đức Phật; và chiếc y cũng giúp người khoác nó luôn nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của mình.

Sự đồng nhất hay dị biệt trong kiểu cách và sắc màu y áo do đó không phải là vấn đề cốt yếu. Điều cốt yếu là phải vượt thoát khỏi những dị biệt về sắc tướng áo y - vấn đề ít nhiều liên quan đến vấn đề bộ phái - để thấy rằng chúng ta dù không cùng "áo vuông" thì vẫn chung "đầu tròn"; và sứ mệnh cũng như lý tưởng của người đệ tử Phật, dù đang khoác lớp áo y gì, vẫn không hề khác nhau.

Thích Nguyên Hiệp



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8010)
Hôm nay chúng tôi xin nói qua và giải thích thêm về bản chất của Đạo Phật để quí Phật tử thấy rõ đạo Phật là bi quan hay lạc quan. Đây là vấn đề mà nhiều người muốn biết, nhưng Phật tử chúng ta đa số vẫn chưa giải nổi. Chúng tôi sẽ nói rõ để quí Phật tử hiểu cho thật đúng với tinh thần của đạo Phật, tránh bị người xuyên tạc, hiểu lầm. Trước hết, chúng tôi nói đến quan niệm mà đa số người hiểu lầm cho rằng đạo Phật là bi quan.
02/11/2010(Xem: 8525)
aukhi D.T. Suzuki qua đời, hội Phật giáo Hoa kỳ góp nhặt các bài viết cuối cùng củaông để in thành sách với tựa đề "Lãnhvực của Thiền học Zen" (TheField of Zen, 1969) và bốn mươi năm sau quyển sách này được dịch sang tiếngPháp với tựa đề "Những bài viết cuốicùng bên bờ của cõi trống không" (DerniersÉcrits au bord du Vide, 2010). Dưới đây là một trong số các bài được tuyểnchọn trong quyển sách này.
31/10/2010(Xem: 9122)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
31/10/2010(Xem: 9914)
Bài nầy do Chân Văn dịch từ Chương Bốn trong quyển "Living Buddha, Living Christ" của Thích Nhất Hạnh, Riverheads Book xuất bản 1995. Quyển sách gồm nhiều bài giảng bằng Anh ngữ của Thầy, được ghi âm, chép lại và nhuận sắc. Ðây là một quyển sách đã bán được rất nhiều trong loại sách về tôn giáo và tâm linh ở Hoa Kỳ. Theo lối quen dùng trong các sách Việt ngữ của Thầy, từ "Buddha" được dịch là "Bụt", một từ trong tiếng Việt cổ dùng để phiên âm "Buddha" khi đạo Phật được truyền vào Việt Nam vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Về sau, từ khi người Việt dùng kinh sách chữ Hán, từ "Phật" hay "Phật Ðà" (tiếng Hán Việt) được dùng thay từ "Bụt". Bài dịch nầy đã được đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21, California, Hoa Kỳ, tháng 11-1995
31/10/2010(Xem: 9745)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác? Trong bài viết ngắn này chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề "Không sát sanh" hay "tôn trọng sự sống" như là thái độ sống của một người Phật tử.
29/10/2010(Xem: 8194)
Linh hồn sẽ tồn tại sau khi chết có hay không ? Sau đây bài viết “Linh Hồn và Cõi Âm” của GS TS Bùi Duy Tâm (sống tại Francisco, CA 94122, USA). Từ chỗ chưa có cơ sở để tin cậy vào sự tồn tại vong linh của con nnep song daogười, GS Tâm đã kiên trì tìm hiểu vấn đề tâm linh và cuối cùng đã rút ra kết luận chắc chắn rằng : sự sống sau cái chết là có thực !
29/10/2010(Xem: 9124)
Có người cho rằng chữ niệm ở trong vô niệm cũng giống như chữ niệm ở trong chánh niệm. Không phải vậy!Chữ niệm ở trong vô niệm có nghĩa là một tư tưởng, một cái tưởng, một tri giác (perception), một ý niệm (idea), một quan niệm (notion). Vô niệm tức là vượt thoát những tư tưởng, những ý niệm, những tri giác đó. Tại vì mình có những tư tưởng, những ý niệm, những tri giác đó, và đôi khi mình đồng nhất nó với sự thật tuyệt đối. Vì vậy mình phải vượt thoát ý niệm đó thì mình mới có thể tiếp xúc được với sự thật.
28/10/2010(Xem: 8442)
Córất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sựphóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏitâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm, nênchúng ta vẫn coi chúng như những thể tách rời và khác biệt.Tâm chúng ta cứ hết sân hận, ganh tị rồi lại mừng vui,phấn khích - đủ mọi cung bậc thăng trầm của cảm xúc.Thực sự chúng ta chưa hiểu được mình đang trải nghiệmnhững gì, ta thực sự là ai, ai đang thực sự sân giận hayvui vẻ, ai đang nản lòng hoặc tràn trề hứng khởi: điềugì đang thực sự diễn ra? Trên thực tế
28/10/2010(Xem: 7816)
Kính lễ Kim Cương Thượng Sư Tôn! Đấng Pháp Vương Drukpa tôn quý, Ngài là chủ hết thảy Đạo sư, Mang phúc lợi nhiêu ích hữu tình. Dưới gót sen cao quý quang vinh, Dốc lòng thành con nguyện quy kính! Đức Long Thọ Bồ Tát dạy rằng: “Giới luật, giống như căn bản của thế và xuất thế, là nền tảng của hết thảy trí tuệ”.
28/10/2010(Xem: 8229)
Chủ nhật vừa qua tôi hết sức vui mừng vì đã thuyết bài Pháp đầu tiên tại Singapore. Ðương nhiên khi nhìn thấy số thính chúng nhiệt tình mộ đạo như vậy và khi trông thấy giảng đường chật kín, có số người còn đứng tràn ra ngoài, tôi vô cùng phấn khởi, sau đó tôi bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân nào đưa đến một số thính chúng tham dự đông đảo nồng nhiệt như vậy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]