Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hãy gọi đi! Đò sẽ tới

19/09/201508:20(Xem: 9277)
Hãy gọi đi! Đò sẽ tới

Chua Phat To (1)

HÃY GỌI ĐI ! ĐÒ SẼ TỚI.

                                Huệ Trân

 

 

            Đối với người Phật tử, dù ở bất cứ phương trời nào, không phải chỉ mùa Vu Lan mới là thời điểm để người con Phật thể hiện lòng báo đức tri ân. Ân Chư Phật, ân Thầy Tổ, ân cha mẹ giáo dường, ân đàn na thí thí, ân xã hội, ân chúng sanh …. mà ân kia, đức đó phải luôn phát nguyện bằng thiện tâm:

            Hiếu là độ được song thân,

            Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài”  

            Theo tinh thần trùng trùng duyên khởi trong kinh Hoa Nghiêm thì muôn người, muôn loài đều thầm lặng vì nhau mà sinh diệt. Cái này vì cái kia mà hiện hữu, cái này ra đi để cái kia tồn tại. Như lá rụng mà thực chẳng diệt, vì lá lại thành đất nuôi cây. Như mây tụ lại mà thực chẳng tan, vì mây chỉ chuyển hóa thành mưa tươi mát, tắm đẫm cỏ nội hoa ngàn ….

            Với lòng tin ở sự vận chuyển nhiệm mầu, người con Phật thường đem sự cẩn trọng mà cư xử với nhau vì biết đâu, ai có thể là ông bà, cha mẹ, quyến thuộc mình đã ra đi và nay lại đang hiện hữu!

            Dù bất cứ tôn giáo nào, lòng chân thành luôn là yếu tố cần thiết để đạt tới sự giao cảm. Như câu chuyện có thật, về lòng chân thành của một bé gái 8 tuổi đã cứu sống em trai mình.

            Cô bé chỉ biết em mình bệnh nhiều lắm, cha mẹ đã phải dọn từ căn nhà lớn về căn nhà nhỏ mà cũng không còn tiền chữa trị cho em. Một lần, cô nghe cha mẹ thì thầm “Chỉ còn phép mầu mới cứu được Andrew, mà chúng ta biết tìm đâu ra phép mầu!”

            Nghe thế, cô bé về phòng, đập vỡ con heo đất dành dụm từ lâu, gom hết những đồng tiền cắc, rồi chạy ra tiệm thuốc đầu phố. Tới nơi, cô dốc hết gói tiền lên mặt quầy rồi nói:

            - Cháu chỉ có bây nhiêu. Cháu cần mua phép mầu.

            Người bán thuốc ngạc nhiên:

            - Em nói gì? Em cần gì?

            Cô bé nghẹn ngào:

            - Em Andrew bị bệnh nặng lắm. Cháu nghe cha mẹ nói, chỉ có phép mầu mới cứu em được. Ở đây có bán phép mầu không?

            Người bán hàng thông cảm, nhìn em và buồn rầu trả lời:

            - Chú rất tiếc, ở đây không có bán phép mầu cháu à!

            Một người đàn ông trung niên đang đứng chờ sau cô bé, nghe câu chuyện, bỗng cúi xuống hỏi nhỏ:

            - Andrew bệnh gì?

            - Cháu không biết bệnh gì ở trong đầu. Cha mẹ nói phải mổ, và phải có phép mầu.

            -Cháu có bao nhiêu tiền?

            Cô bé vội vã đếm:

            - 10 xu … 20 xu … 45 xu …. 1 đồng …. Dạ, cháu có 1 đồng 11 xu ạ.

            Trước sự ngạc nhiên của người bán hàng, người đàn ông trung niên tỏ vẻ mừng rỡ, nắm tay cô bé:

            - Ồ, may quá! Cháu có vừa đủ tiền mua phép mầu. Mau dẫn bác về nhà gặp cha mẹ và Andrew đi! Chúng ta sẽ dùng phép mầu chữa bệnh cho Andrew.

           

            Người đàn ông trung niên đó là bác sỹ Carlton Armstrong, một bác sỹ giải phẫu lừng danh của bệnh viện đa khoa trong thành phố.

           

            Cuộc giãi phẫu thành công mỹ mãn với sự đài thọ toàn bộ của bệnh viện, do bác sỹ Armstrong đề nghị.

            Bé Andrew được cải tử hoàn sinh nhờ lòng chân thành của chị. Lòng chân thành đó là năng lượng thầm lặng nhưng vũ bão, đã giao cảm được với lòng từ của vị lương y mà tạo nên phép mầu.

            Có lẽ, đối với cô bé, phép mầu có giá là 1 đồng 11 xu. Chỉ cha mẹ cô trực nhận phép mầu là vô giá!

 

            Nhớ lại câu chuyện này, tôi không khỏi bồi hồi khi Sư Phụ chúng tôi cũng vừa  “cải tử hoàn sinh” sau khi được thay gan, ở thời điểm đã cận kề cái chết!           

            Lá gan của Sư Phụ chúng tôi đòi “về hưu” từ lâu, và đã tới thời điểm nó ra tối hậu thư “Không cho nghỉ, tôi cũng nghỉ đó!”

            Để có được những phương tiện trị liệu tốt, Sư Phụ chúng tôi đã phải nghe lời khuyên của các bác sỹ, rời chùa, rời huynh đệ chúng tôi, qua tiểu bang khác để chờ lá gan hiến tặng.

            Suốt 9 tháng đợi chờ, sau 2 lần đã tới phiên được có gan hiến tặng nhưng khi kiểm tra toàn bộ thì quà tặng lại chưa đủ những yếu tố an toàn thích hợp để ghép vào cơ thể người nhận. Và đến lần thứ ba được gọi lên, cũng là khi sức khỏe Sư Phụ chúng tôi đã kiệt quệ. Tuy không nói ra nhưng chúng tôi đều nhìn nhau trong cùng ý nghĩ rằng “Dù lần này quà tặng có thích hợp nhưng liệu Sư Phụ còn đủ sức chịu đựng cuộc giải phẫu cam go này không?”

            Chư Tôn Đức khắp nơi, những vị đã từng có đạo tình với Sư Phụ chúng tôi, đều hết lòng cầu nguyện Đức Quan Thế Âm gia hộ, không phải chỉ ở thời điểm cận kề này, mà từ khi Sư Phụ chúng tôi lên đường điều trị, quý Ngài cũng đã luôn chân thành cầu nguyện. Chúng tôi từng được chứng kiến những buổi cầu nguyện đó, hết nơi này tới nơi kia. Huynh đệ chúng tôi vô cùng tri ân Chư Tôn Đức.

 

            Sau 4 tiếng chờ đợi ngoài phòng mổ, để được tin là cuộc giải phẫu đã hoàn tất, chúng tôi đều một lòng tin tưởng rằng, hậu giải phẫu dù cam go đến mức nào, Sư Phụ chúng tôi cũng sẽ vượt qua, vì bao lòng thành hướng về Sư Phụ đã giao cảm được với tâm Bồ Tát. Không có sự nhiệm mầu này thì với căn bệnh nan y mang trong người đã hơn bốn năm, sự chờ đợi lá gan hiến tặng đã hơn 9 tháng mà phút cuối, chỉ ngắn ngủi là 2 ngày, là 48 tiếng đồng hồ để phép mầu hiển lộ.

            Đó chính là lời vị bác sỹ trưởng nhóm phẫu thuật nói với chúng tôi trước khi giải phẫu: “Hai ngày nữa mà không được thay gan, e rằng khó còn hy vọng!”

 

            Tôi nhớ, một lần thính pháp, khi thuyết về lòng chân thành và sự giao cảm, giảng sư đã kết luận bằng một lời thật xúc tích: Hãy gọi đi ! Đò sẽ tới !”

            Vâng. Hãy gọi đi ! Đò sẽ tới.

            Tất nhiên, phải là những lời gọi chí thành thì “Đạo cảm thông ” mới “Không thể nghĩ bàn”

           

           Chua Phat To (1)

            Sư Phụ chúng tôi hồi phục, về lại chùa vào thời điểm Vu Lan.

            Sau những chương trình thường xuyên được tổ chức trong tinh thần Vu lan theo lời Phật dạy, Sư Phụ chúng tôi đã nghĩ sâu xa hơn về sự đền ân báo đức.   Huynh đệ chúng tôi đều nhiệt thành tuân theo ước muốn này.

            Và ngày Chủ Nhật 13 tháng 9 năm 2015, Trai Đàn Chẩn Tế Siêu Tiến Thập Loại Cô Hồn Bình Đẳng Chúng đã được long trọng tổ chức tại Đại Hùng Bửu Điện chùa Phật Tổ, do Ban Kinh Sư chùa Phật Tổ đảm trách.

            Sau khi thọ trai, với kinh nghiệm của Quý Thầy trong Ban Kinh Sư cùng với lòng nhiệt thành của đại chúng, Chánh Điện đã nhanh chóng biến đổi thành khung cảnh của một đàn tràng trang nghiêm mà trầm hương, hoa đèn và tôn tượng các vị Đại Sỹ cứu độ chúng sanh đã phảng phất hài hòa sự giao cảm âm dương.

            Đúng 2 giờ trưa, Sư Phụ chúng tôi – Hòa Thượng Thích Thiện Long, Phương Trượng chùa Phật Tổ - thành kính nguyện hương trước Phật đài, cúi xin mười phương Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng chứng giám gia hộ cho Đàn Tràng đạt được sự tri ân, báo đức tới muôn người muôn loài còn trầm luân trong biển khổ.

            Những nén nhang thơm vừa được dâng lên thì từ Phòng Tổ, Đại Đức Thường Huệ, vị sẽ đảm trách nhiệm vụ Kim Cang Thượng Sư trong Trai Đàn, cùng với hai thị giả chậm rãi bước ra.

 Chua Phat To (2)

            Thầy còn trẻ, rất trẻ đối với trọng trách hôm nay, nhưng qua sắc phục tôn nghiêm, thầy đang từng bước hiển lộ tinh thần Kim Cang Thượng Sư.

            Khi đã đứng trước Hòa Thượng Phương Trượng và cũng là Sư Phụ mình, Thầy làm phần vụ trước khi khai đàn. Đó là chắp tay kính cẩn tỏ lòng cám ơn vị tổ chức Trai Đàn, và kế tiếp là thể hiện lòng hiếu đạo của đệ tử đối với Sư Phụ.

 

            Thầy chắp tay búp sen trước trán, rồi chậm rãi, thật chậm rãi, búp sen từ từ dừng trước ngực, như để cùng trái tim, thổn thức đập những nhịp ân tình … Rồi từ trái tim, búp sen theo toàn thân thầy xuống thấp, xuống thấp, rồi hai chân quỳ, búp sen nở xòe ra, để thể hiện thế lạy cực kỳ cung kính, là 5 vóc sát đất.

            Cũng như khi quỳ lạy, Thầy đứng lên bằng động tác khoan thai và từ tốn để lập lại ba lạy như thế, tạ ơn Sư Phụ.

 

            Toàn thể hội trường chợt ngưng đọng.

            Giây phút này, ngôn ngữ mới thực vong thân, bởi không ngôn ngữ nào diễn tả cho hết nghĩa cha con sâu dầy, tình thầy trò mênh mông trong đạo vị của giáo pháp Như Lai …

            Giây phút này là giây phút mãn khai của đóa quỳnh hương. Không thể trước, không thể sau, mà đúng thời đó, đúng lúc đó thì hoa kia mới trọn vẹn. Như con sâu xấu xí phải trải trọn thời-nghiệp, mới hóa thân thành cánh bướm muôn mầu rực rỡ.

            Sư Phụ chắp tay, khép mắt, im lặng nhận ba lạy báo ân của đệ tử mà lệ nhòa hình ảnh bé trai sơ sinh mới 23 ngày tuổi đã bị bỏ trước cổng chùa. Ông thầy tu ra sân quét lá, nghe tiếng khóc, đã hốt hoảng buông chổi chạy ra, vội bế bé lên. Hơi ấm đầu tiên truyền sang nhau trở thành tình cha con, tình thầy trò, đã là hạnh phúc và khổ đau suốt hơn hai mươi năm hệ lụy …

            Giây phút này, với Sư Phụ, có lẽ là cảm xúc hoan hỷ, xứng đáng công nuôi dưỡng …

            Giây phút này, với đệ tử, có lẽ là cơ duyên toàn thiện nhất để báo ân và sám hối với người cha, người thầy đã cưu mang, nuôi dưỡng, dù bao nhiêu phiền não, khổ đau phải chịu do tuổi trẻ vô minh từng gây ra.

            Giây phút này, Sư Phụ ơi, không phải chỉ Sư Phụ cảm nhận như vậy đâu, mà huynh đệ chúng con cũng cùng được hạnh phúc như thế.

            Hạnh phúc không chỉ vì được tham dự một Trai Đàn trang nghiêm mà còn là cơ duyên được chứng kiến sự chuyển hóa nhiệm mầu của hài nhi đỏ hỏn 23 ngày tuổi bị bỏ trước cổng chùa năm xưa, đang hóa thân Kim Cang Thượng Sư với âm thanh sấm sét của Sư Tử hống “Địa ngục vị không. Thệ bất thành Phật”.

 Chua Phat To (3)

            Trai đàn chính thức bắt đầu khi vị Kim Cang Thượng Sư khải báo, qua những nghi thức ấn chú gia trì, thỉnh mời mười phương Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng thùy từ chứng giám.

            Mỗi vị Phật, mỗi vị Bồ Tát đều được thỉnh mời bằng nghi thức ấn chú riêng, nên khi đại chúng tham dự, chỉ cần giữ tâm thanh tịnh và lòng kính tin, thì mỗi động tác chậm rãi, cực kỳ tôn nghiêm của vị Thượng Sư Kim Cang đều có thể truyền đạt tới đại chúng sự hoan hỷ, như chính mỗi người đang thỉnh mời Chư Phật, Chư Bồ Tát về chứng minh.

            Suốt 4 tiếng đồng hồ liên tục, âm thanh pháp khí lồng vào mỗi phần tán tụng của tám vị Kinh Sư, tùy từng nội dung mà khi thì trầm hùng, khi thì rộn rã, khi thì réo rắt, dường như để phù hợp với căn cơ, cũng như tội chướng của thập loại cô hồn, khiến còn vất vưởng nơi đâu, bắt được tần số những âm thanh này cũng cố gắng tìm về hưởng thực, nghe kinh, hầu giải thoát khỏi trầm luân sanh tử.

 

            Trong phần kết-đàn, khi một vị Kinh Sư tuyên đọc danh hiệu Chư hương linh được thân nhân dâng sớ, thì một làn gió mát từ đâu chợt bay ngang giữa không khí oi bức suốt tuần.

            Đại chúng không ít người, bằng phản xạ tự nhiên đã nhìn ra các cửa sổ.

 

            Nhưng ai thấy được gió!

            Phải chăng đó chỉ là thông điệp:

            “Hãy gọi đi! Đò sẽ tới !”

 

 

Huệ Trân

(Phật Tổ Tự - Trai Đàn Chẩn Tế 13-9-2015)

 

           

                       

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/12/2020(Xem: 5093)
Ngày 10 tháng 12 vừa qua, theo Bình Nhưỡng đưa tin (KCNA) – Trong số những Di sản Văn hóa quý giá đất nước Triều Tiên có “Cao ly Bát Vạn Đại Tạng kinh” (고려 팔만 대장경, 高麗八萬大藏經, 80.000 Wooden Blocks of Complete Collection of Buddhist Scriptures” được khắc mộc bản vào nửa đầu thế kỷ 11, triều đại Vương quốc Koryo (918-1392).
19/12/2020(Xem: 5004)
Lối xưa người đến dạo chơi, Hoá thành chú Tiểu, học lời Thầy Trao. Thênh thang mây trắng hôm nào, Ra vào chốn tịnh, trăng sao gối tình.
13/12/2020(Xem: 6033)
Một học giả nổi tiếng người Anh, làm việc cho trường đại học ở Luân Đôn, nổi tiếng vì ông đã dịch một số sách vở Phật giáo từ tiếng Hoa. Trong số những ấn bản đã in của ông có tác phẩm “Cuộc Đời của Thánh Tăng Huyền Trang, The Life of Hsuan-Tsang”. Cư sĩ Samuel Beal sinh vào ngày 27 tháng 11 năm 1825, nguyên quán tại Greens Norton, một ngôi làng ở Nam Northamptonshire, Vương quốc Anh, vị học giả nổi tiếng Phương Đông học, vị Phật tử người Anh đầu tiên trực tiếp dịch những tác phẩm văn học Phật giáo từ tiếng Hoa sang Anh ngữ, ban đầy những ghi chép kinh điển Phật giáo, do đó góp phần làm sáng tỏ lịch sử Ấn Độ.
11/12/2020(Xem: 6040)
Phật giáo Hàn Quốc phải chịu đựng nỗi đau chưa từng có của “Pháp nạn 27.10” (10·27 법난, 十二七法難), nhưng chư tôn tịnh đức tăng già đã biến đau thương thành sức mạnh. Chẳng bao lâu, nỗi đau ấy đã thăng hoa thành động lực để sớm hồi sinh trong phúc lợi xã hội, và những thành tựu đáng kể bắt đầu đạt được trong các lĩnh vực xã hội dân sự, thông qua tổ chức phi chính phủ (NGO), nhân quyền, giao lưu liên Triều (Nam Bắc Hàn) và phúc lợi xã hội.
11/12/2020(Xem: 5536)
Mối quan hệ giữa Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc được minh họa rõ nhất qua lời của tác giả, nhà báo, nhà sử học và nhà tây tạng học, Cư sĩ Claude Arpi, người Pháp, người đã viết một loạt các tác phẩm quan trọng về Tây Tạng, Ấn Độ và Trung Quốc, bao gồm “Số phận Tây Tạng: Khi Những Côn trùng lớn ăn thịt Côn trùng bé; The Fate of Tibet: When the Big Insects Eats Small Insects”.
10/12/2020(Xem: 6249)
Trong số nhiều ấn phẩm sách báo, thư từ cũ xưa mà mẫu thân truyền giao cho tôi gìn giữ, bảo quản để làm tư liệu để viết lách sáng tác, tôi tìm thấy được quyến sách “Thi phẩm Từng giọt Ma Ni” (xuất bản năm 1993, bìa sách là tranh của Họa sĩ Phượng Hồng), cùng 02 phong bì thư của “Tạp chí An Lạc” được gửi qua bưu điện từ Sài Gòn ra Nha Trang vào năm 1966, trên các kỷ vật quý hiếm này đều có lưu thủ bút của một bậc danh tăng Phật giáo nước nhà: Hòa thượng Thích Thông Bửu.
10/12/2020(Xem: 5384)
Nữ nghệ sĩ Phật tử Jacques Marchais sinh năm 1887 tại Cincinnati, thành phố ở miền tây nam Ohio, Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là cụ ông John Coblentz và mẫu thân là cụ bà Margaret Norman Coblentz. Vốn mồ côi cha từ thuở ấu thơ, mẹ phải vất vả đùm bộc trong cảnh gà mái nuôi con; Jacques Marchais đã đến các trại mồ côi và các mái ấm khác nhau trong suốt thời thơ ấu, và tuổi thanh xuân 16, bà đã trở thành diễn viên tham gia vào một bộ phim Boston Peggy From Paris, nơi bà gặp người chồng đầu tiên Brookings Montgomery. Bà sinh được ba người con, hai gái Edna May và Jayne, và con trai, Brookings.
08/12/2020(Xem: 14933)
29/ Nhị Tổ Huệ Khả Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Năm, 01/10/2020 (15/08/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻 Bổn lai duyên hữu địa, Nhơn địa chúng hoa sanh, Bổn lai vô hữu chủng, Hoa diệc bất tằng sanh. Xưa nay nhơn có đất, Bởi đất giống hoa sanh, Xưa nay không có giống, Hoa cũng chẳng từng sanh Nam Mô Đệ Nhị Tổ Huệ Khả Tôn Sư 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼 Múi giờ : pháp thoại mỗi ngày của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 01:45pm (giờ Cali, USA) - 04:45pm (giờ Montreal, Canada) - 10:45pm (giờ Paris, France) - 03:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 https://www.facebook.com/quangducwebsite
07/12/2020(Xem: 5544)
Cư sĩ Giuseppe Tucci (dʒuˈzɛppe ˈtuttʃi; sinh ngày 5 tháng 6 năm 1894 – mất ngày 5 tháng 4 năm 1984), Học giả tiên phong người Ý, nhà Đông phương học, Ấn Độ học, Đông Á học, người đã xuất bản một số sách, mở đầu cho việc nghiên cứu tôn giáo, lịch sử và văn hóa của Tây Tạng. Ông là một trong những học giả Tây phương đầu tiên du hành một cách rộng rãi trên khắp vùng cao nguyên, Phật giáo Kim Cương thừa Tây Tạng và các vùng phụ cận, những sách xuất bản của ông thường nổi tiếng về cả nội dung lẫn sự phiêu lưu mạo hiểm của ông trong khi làm nghiên cứu.
06/12/2020(Xem: 5500)
Đạo phật ngày nay đang xuyễn dương lối sinh hoạt của người con Phật là sống an nhiên tự tại trong hiện tiền. Lối sống được mọi người noi theo là tĩnh thức và hiện tại. Làm sao đạt được điều ấy? Và tại sao sống tĩnh thức và hiện tiền là chấm dứt khổ đau? Trong khi theo Phật dạy Tứ diệu đế thì tu tập diệt tận cùng lậu hoặc diệt khổ đau. Sống tĩnh thức là theo 4 y của Phật dạy: y pháp bất y nhân. Y nghĩa bất y ngữ. Y trí bất y thức. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa. Sống hiện tiền là sống trong thiền định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]