Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật nói gì về hôn nhân đồng tính

18/09/201006:57(Xem: 9052)
Đức Phật nói gì về hôn nhân đồng tính
hoa sung

ĐỨC PHẬT NÓI GÌ
VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH

Thích minh Trí biên dịch

San Francisco, USA --- Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ.

Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”

Quan điểm này được dựa trên những hạn chế đã phát hiện trong kinh điển mà ngài không thể thay đổi. Tuy nhiên, ngài khuyên các lãnh đạo Phật tử đồng tính nên nghiên cứu sâu hơn để thảo luận vấn đề này và ngài cho rằng sự thay đổi có thể xảy ra thông qua một một số ý kiến nhất trí mang tính thần học. Nhưng tại thời điểm khi mà hôn nhân đồng tính đã trở thành chủ đề thời sự nóng trong nền chính trị Hòa Kỳ thì những phát biểu gần đây nhất của đức Dalai Lama đưa ra như là những tin tức bất lợi cho những người đề xướng quyền tự do cá nhân.

Phải chăng điều này có nghĩa là Phật giáo lên án quan hệ đồng tính? Hoàn toàn không. Trái với nhận thức phổ thông, đức Dalai Lama không thuyết giảng cho tất cả các Phật tử. Là lãnh đạo của tông phái Mũ vàng chiếm ưu thế của Phật giáo Tây Tạng, ngài thuyết giảng cho một phần dân chúng theo đạo Phật trên thế giới. Phần đông Phật tử không thực hành theo truyền thống của ngài mặc dù nhiều người tôn kính và ngưỡng mộ ngài và kinh điển Tây Tạng mà đức Dalai Lama đưa ra được viết trong những thế kỷ sau khi đức Phật nhập niết-bàn.

Có lẽ đạo Phật còn đa dạng hơn cả Thiên chúa giáo. Trên thực tế, sự khác biệt giữa các tông phái là rất lớn mà một vài nhà nghiên cứu coi các tông phái ấy như là những tôn giáo khác nhau. Thật vậy, theo Tỳ kheo Thanissaro, viện chủ Tu viện Metta Forest ở miền nam California, cho đến nay như chúng ta biết thì đức Phật chưa bao giờ cấm cư sỹ quan hệ đồng tính luyến ái. Sư Thanissaro trích dẫn kinh điển nguyên thủy nói rằng: “Khi đức Phật vạch ra ranh giới giữa quan hệ chăn gối hợp pháp và bất hợp pháp, ngài không hề đề cập đến bất cứ một điều gì về hương vị của quan hệ tình dục hoặc sở thích về giới tính. Dường như đức Phật chú trọng hơn đến việc không xâm phạm các đòi hỏi hợp pháp mà người khác có thể có đối với người hôn phối của bạn.”

Giới luật tự viện của Phật giáo có những hướng dẫn chi tiết – và đôi khi khôi hài (suy nghĩ của Leviticus) - chỉ áp dụng đối với tu sỹ, và đối cư sỹ thì vẫn còn có phần mở ra tranh luận.

Cộng đồng Phật tử phương Tây nổi tiếng vì đức khoan dung của họ và chính đức Dalai Lama cũng có các đệ tử đồng tính một cách công khai. Hiếm khi người ta nghe ai đó gõ trống khua chiên đuổi một cộng đồng Phật tử vì họ là những người đồng tính và trong hầu hết các truyền thống đã thực hành ở phương Tây – trong đó có cộng đồng Tây Tạng, tình dục là vấn đề hiếm khi được bàn đến nếu không muốn nói rằng đó chưa phải là một vấn đề. Dù sao, trong bối cảnh chính trị hiện nay, nghe một Phật tử nổi tiếng nhất thế giới tuyên bố đồng tính luyến ái là “tà hạnh”, khiến mọi người tin rằng giáo lý của đức Phật cấm quan hệ đồng tính. Họ không còn cách nào khác hơn là ủng hộ và tán thành những gì đã có trong giáo pháp.

Những người bạn của tôi tranh luận rằng đức Dalai Lama không hẳn thật sự kỳ thị quan hệ đồng tính, rằng ngài không có sự chọn lựa nào khác hơn ngoài việc tán thành những giới điều trong truyền thống của ngài; và rằng có thể đức Dalai Lama bị chấp vào những điều răn cấm của kinh điển cổ giống như cách của một người Thiên chúa giáo, hễ bất cứ nói ra điều gì thì lại liên hệ đến thánh Thomas Aquinas. Tuy nhiên, chúng ta không biết và nên coi những tuyên bố công khai của ngài chỉ có giá trị hình thức. Trong trường hợp của ngài, dẫu sao thì sự kỳ vọng của chúng ta có khuynh hướng khác với những người có thể là mục sư địa phương, giáo sỹ hoặc giáo sỹ chính thống giáo. Và rất nhiều người trong chúng ta đã hưởng lợi ích rất lớn từ những lời dạy của ngài thì dễ cảm thấy thất vọng.

Nguyên tác Anh ngữ

GAY MARRIAGE: WHAT WOULD BUDDHA DO?
by James Shaheen, The Huffington Post, July 13, 2009

San Francisco, USA -- A lot of people ask me what the "Buddhist take" on gay marriage is. Well, it depends on who you talk to. A few years back, in an interview with the CBC, the Dalai Lama rejected same-sex relationships to the surprise of many convert Buddhists, who sometimes too easily assume that Buddhist ethics are consistent with their typically progressive views.

As the Canadian interview bounced around the internet, some people were shocked and perplexed, but the Dalai Lama's position shouldn't have come as a surprise to anyone who has followed the issue. After all, he has been consistent. At a conference some 12 years ago, when gay leaders met with him in San Francisco to discuss the Tibetan Buddhist proscriptions against gay sex, he reiterated the traditional view that gay sex was "sexual misconduct."

This view was based on restrictions found in Tibetan texts that he could not and would not change. He did, however, advise gay Buddhist leaders to investigate further, discuss the issue, and suggested that change might come through some sort of theological consensus. But at a time when same-sex marriage has taken front-stage center in American politics, the Dalai Lama's more recent statements come as unwelcome news to proponents of civil rights.

Does this mean Buddhism condemns same-sex relationships? Not at all. Contrary to popular perception, the Dalai Lama does not speak for all Buddhists. As the leader of the dominant Gelug sect of Tibetan Buddhism, he speaks for one slice of the world's Buddhist population. The vast majority of Buddhists do not practice in his tradition -- however much they respect and admire him -- and the Tibetan texts the Dalai Lama refers to were written centuries after the Buddha had come and gone.

Buddhism is perhaps even more diverse than Christianity. In fact, the differences among schools can be so vast that some scholars consider them different religions. Indeed, according to Thanissaro Bhikkhu, abbot of the Metta Forest Monastery in southern California, the Buddha never forbade gay sex for lay people as far as we know. "When he drew the line between licit and illicit sex, it had nothing to do with sexual tastes or preferences," he says, citing early texts. "He seemed more concerned with not violating the legitimate claims that other people might have on your sexual partner."

The Buddhist monastic code, which contains detailed -- and sometimes ludicrous -- guidelines (think Leviticus), applies only to monks, leaving the rest open to debate.

Western dharma communities are known for their tolerance, and the Dalai Lama himself has openly gay students. It's rare to hear of anyone being drum med out of a Western Buddhist community for being gay, and in most Buddhist traditions practiced in the West--including the Tibetan communities--sexuality is rarely if ever an issue. Nonetheless, in the current political climate, hearing the world's most famous Buddhist declare homosexuality to be "sexual misconduct" can't help but lead people to believe that the Buddha's teachings proscribe same-sex relationships. They don't, any more than they promote them.

Friends of mine have argued that the Dalai Lama doesn't really look askance same-sex relationships, that he has no choice but to uphold his tradition's dictates; and that maybe the Dalai Lama is just stuck with the old texts' proscriptions in the same way that a Catholic, say, must deal with Thomas Aquinas. Of course, we can't know and must take his public statements a face value. In his case, though, our expectations tend to be different than they might be for the local minister, priest or orthodox rabbi. And so many of us who have benefited greatly from his teachings are apt to feel disappointed.



[Nguồn: http://www.buddhistchannel.tv/index.php?id=70,8365,0,0,1,0]

Thích Minh Trí biên dịch
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2020(Xem: 6635)
Tản mạn : Làm sao Chuyển hoá khổ đau ? "Khổ đau chỉ đến khi ta khởi lên ý niệm đó mà thôi ! " Nếu ai đó đã từng học được điều này thì mời các bạn cùng tôi ngâm vài vần thơ trước khi vào đề tài rất hữu ích cho thời đại công nghệ này bạn nhé ! Nhất là giới trẻ và trung niên ngày nay dù có học Phật Pháp hay đang nghiên cứu vài sách về tâm lý . Làm thế nào khổ đau được chuyển hoá ? Không lạm bàn nạn dịch với thiên tai Thẩm sâu nội tâm ... rơi lệ , thở dài Chuyện uất ức, bất mãn, thành công thất bại ! Suy cho kỹ ... Tâm phan duyên, hoang dại ! Khổ đau chỉ đến ... ý niệm khởi đó thôi Tự mình tiêu cực, sao lại phải Tôi!!! Nào tản mạn ... nuôi dưỡng được tâm thái tích cực !!! ( thơ Huệ Hương )
17/11/2020(Xem: 8022)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
17/11/2020(Xem: 5780)
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
16/11/2020(Xem: 4800)
Vào ngày 8 tháng 11 vừa qua, Hội đồng Thống nhất Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo Bangldesh (Bangladesh Hindu Bouddha Christian Oikya Parishad; BHBCOP), đã tổ chức một chương trình tập hợp và biểu tình hàng loạt trên toàn quốc để phản đối các cuộc tấn công, đốt phá, tra tấn và giết hại người tôn giáo thiểu số tại Bangldesh. Là một phần của cuộc biểu tình, họ đã thành lập các chuỗi người và các cuộc biểu tình từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa tại các giao lộ chính của các trụ sở cơ quan chính quyền cấp quận, huyện, thành phố và tỉnh trên khắp đất nước, bao gồm cả giao lộ Shahbagh, Dhaka và giao lộ ngã tư New Market, Chittagong.
16/11/2020(Xem: 5474)
Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào để việc phân tích không trở thành một bài học thuộc lòng như vẹt mà phải là sống động. Khi chúng ta tìm kiếm cho một “cái tôi” tồn tại cụ thể như vậy mà không thể tìm kiếm được nó hoặc là cùng giống hay khác biệt với tâm thức và thân thể, điều thiết yếu là phải tìm kiếm cùng khắp; bằng khác đi chúng ta sẽ không cảm thấy tác động của việc không tìm thấy nó. Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã viết:
15/11/2020(Xem: 6057)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc. Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddh
14/11/2020(Xem: 6456)
Kính mạn phép được thay đổi lại lời của một bài hát mà âm điệu đã thấm sâu vào huyết quản tôi từ bao giờ và hôm nay một lần nữa lại vang vang ...nửa như kích thích sự hưng phấn trong tôi nửa như khuyến khích tôi phải trình bày vì sao tôi thấy ra được điều này " Một niềm an vui hạnh phúc hỷ lạc thật sự có mặt và có thật trong mỗi con người chúng ta "
13/11/2020(Xem: 5149)
Từ khi có Lục tổ Huệ Năng đưa ra lý thuyết chúng sanh có sẳn Tánh Giác gọi là Phật Tánh trong người nhưng vì bị Ý thức che mờ đi nên cần ngồi thiền vén lớp ý thức này ra thì Phật tánh sẽ hiện ra thành Phật nên không cần kinh luật bất lập văn tự mà tu. Rất nhiều người bình dân phương nam đi theo một thời đông đảo. Câu hỏi được đặt ra là tánh giác này có trước hay sau ý thức? Thế nên mới đưa ra kế tiếp là giác ngộ rồi mới khởi tu tức là học kinh Phật. Vì Giác ngộ đến Giải thoát sinh tử là một chặng đường rất dài có khi rất nhiều kiếp cần trãi nghiệm. Vậy chúng ta nghiên cứu giác ngộ trước.
13/11/2020(Xem: 4805)
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
13/11/2020(Xem: 4743)
Phương tây từ thế kỷ thứ 18 đã từng phát huy cái ngã cái tôi của con người như “tôi suy tư là tôi hiện hữu”. Từ đó đến nay người Phuơng tây phát triển cái tôi, đưa đến tôn trọng cái tính riêng biệt cũa cái tôi từ triết lý đến luật pháp. Nhưng đạo phật lại diệt ngã thì làm sao mà hoằng pháp cho người Phương tây tu theo phật được? Làm sao giải thích được ý nghĩa diệt ngã của đức Phật? Vậy ta có thể giải thích là không phải ngã? Khi người ngồi thiền định dưới cội bồ đề 49 ngày, người đạt giác ngộ và đập tay xuống đất mà nói ta đạt được chánh đẵng chánh giác do trời chứng , ta chứng và đất chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]