Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người canh giữ tiếng chuông Phật học viện Hải Đức - Nha Trang

14/01/201512:20(Xem: 7539)
Người canh giữ tiếng chuông Phật học viện Hải Đức - Nha Trang


GacChuong_Hai_Duc_Nha_Trang







Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
 
Tiếng chuông trong hiện thực hay trong văn học đời nào cũng hiện hữu thì PGVN vẫn tồn tại. Chỉ riêng Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, dù thịnh hay suy, tiếng chuông sớm khuya vẫn không hề gián đoạn, hay tắt lịm giữa đêm tối vô minh. Điều ấy chứng tỏ các vị Tăng, những người con kiên định của PHV biết phát huy lý tưởng khổ hạnh giải thoát của mình, công phu gióng lên tiếng chuông nhiệm mầu không những cho thế gian này mà đến cả Thiết Vi. Riêng người viết bài này, từ niệm thù ân cội nguồn mà điểm lại một chặng đường lịch sử bể dâu. 
 
Có một thời, không phải riêng tôi mà tất cả đồng môn hành điệu nơi này đã sớm chiều công phu gióng lên tiếng chuông trên đồi cao lộng gió. Nhưng rồi cái thời thánh thiện ấy cũng nhanh chóng qua mau, như “nồi kê chưa kịp chín”. Vào thời điểm mở cửa, nên cũng kịp góp vốn xoay xở làm ăn, để cho sự tồn tại không phải đạp xích lô hay làm kẻ gánh thuê ở chợ Đà Lạt như các tri thức lỡ vận của xứ này... Một thời học kinh bằng chữ Hán rồi được nâng lên từ đại học Vạn Hạnh nên cái vốn Hán Nôm cũng đủ lận lưng để giúp tôi rà soát, chỉnh sửa lại những bản dịch Luật của thầy. Cái “bất tu” ấy lại hiện thực tính biện chứng của nó từ đây.
Khoảng những năm cuối của thập niên 70, tôi được ông bà cụ, nhà ở gần nhà thờ Tin lành, Xóm Bóng, là ông bà ngoại của người bạn dạy cùng trường Vĩnh Hải - Đồng Đế cho ở nhờ trong gian phòng nhỏ riêng biệt và cho tôi đóng góp vào hai bữa ăn do cụ bà nấu nướng… Hai cụ có người con rể là mục sư Tin lành, tất nhiên hai cụ là tín hữu ngoan đạo, thường thuyết giảng giáo lý Tin lành cho tôi nghe, có lần rủ tôi đi dự lễ Chúa giáng sinh…Tôi lắng nghe và làm theo như một tín hữu từ bi… Hai bữa cơm trưa, tối, trước khi ăn, tôi nghiêm chỉnh lắng lòng nghe hai cụ cầu nguyện và bày tỏ lòng biết ơn Chúa: “Chúa tạo ra sự sống, Chúa đã cho con thức ăn này, thức ăn này từ Chúa mà có… Chúng con biết ơn chúa…” Tôi cung kính lắng nghe và tâm niệm theo kiểu của tôi, hai cụ rất hài lòng… 
 
Ngày nọ cụ bà hỏi tôi: Bên Phật có cầu nguyện như thế này không? 
 
- Thưa cụ, còn hơn thế nữa cụ ạ! Tôi đáp lời. 
- Thầy có thể nói cho tôi nghe nội dung được không? 
 
Tôi từ tốn thưa rằng: Có 3 điều nguyện và 5 việc phải xét mình.
 
Ba nguyện là: Nguyện dứt bỏ điều ác, nguyện làm các điều thiện, nguyện cứu giúp mọi người. 
 
Năm xét là: a) Xét vật thực, công của ít nhiều này từ đâu đến, b) Xét đo mình có đủ đức hạnh hay khiếm khuyết rồi mới ăn, c) Khi ăn phải ngăn chận tâm tham lam tội lỗi, d) Xem vật thực này là loại thuốc tốt để chữa bệnh khô gầy, đ) Phải thành đạo nghiệp mới nhận thức ăn này. 
 
Thưa hai cụ, các điều nguyện và xét cháu vừa trình bày, quả thật, trừ tu sĩ, phần lớn Phật tử chỉ niệm Phật, ít ai chú nguyện trước khi ăn như bên hai cụ. Gương hai cụ là bài học cho cháu đấy.
 
Thời gian đan xen nhiều thứ ác và thiện, rủi ro và may mắn, khổ đau hay sung sướng... nói khác đi thời gian của “nhị nguyên”. Sau đó không lâu tôi dời chỗ ở và mãi đến một, hai năm sau, ngày ấy, khi hay tin bà cụ kéo nước tưới cây, hệ thống ròng rọc bị gãy đổ, bà cụ ngã nhào rơi xuống giếng sâu, phải mất mấy tiếng sau, trong đêm, người nhà mới phát hiện ra khổ nạn đau lòng này. Tôi đến thăm, cả nhà đang cầu nguyện giữa hoa và đèn sáp lung linh. Tôi xin được cùng tham dự.
 
Trong thời gian tạm ngụ tại nhà hai cụ, khuya nào tôi cũng nghe được tiếng chuông chùa. Sau một thời gian kiểm nghiệm âm thanh vang vọng từ bên này và bên kia sông Cái, rồi nhớ lại độ ngân thuở mình là nhân chứng, tôi vui mà cả quyết rằng âm thanh ấy là từ tiếng chuông Phật Học Viện Hải Đức - Nha Trang. Còn đó dòng sông Cái, một lăng kính khúc xạ âm thanh bàng bạc làm chứng cho điều xác quyết của tôi. 
 
Thời ấy, Phật Học Viện như “tan đàn xẻ nghé” nhưng lớp sau vẫn canh giữ tiếng chuông đều đặn bất chấp thịnh hay suy. Đến nỗi tại đây chỉ còn lại một hai thầy vẫn kiên trì sớm khuya canh giữ tiếng chuông. Trong Phật pháp luôn nói đến điều nhiệm mầu và chính điều này tác động lên cái tâm thanh tịnh của các vị Tăng: Phước Niệm, Phước An, Tâm Pháp… đã vô ngôn trong hạnh nguyện của mình. Nhưng riêng Tâm Pháp út ít nguyện làm người canh giữ tiếng chuông Phật Học Viện đến trọn đời. Thời gian còn lại so với mấy mươi năm công phu gióng chuông chẳng là bao, nhất định thầy Phượng tròn hạnh nguyện và như thế Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang vẫn tồn tại theo tiếng chuông canh giữ của thầy và chắc chắn tiếng chuông sẽ mãi mãi tương tục với thời gian. Công đức ấy là vô lượng, cho nên, việc thiếu thốn cơm, áo, gạo, tiền là chuyện có gì phải đáng quan tâm, nhất định sẽ có Hộ pháp ủng hộ, và sự khỏe mạnh cùng tiếng chuông tinh tấn của thầy Phượng, suốt thời gian qua là một minh chứng. Hạnh đầu đà thời nào cũng vẫn thế, và như thầy đã biết Thế Tôn ca ngợi, tán dương hạnh đầu đà của tôn giả Ca Diếp như thế nào rồi. Hãy soi gương Tôn giả Ca Diếp mà tự tại trên non Trại Thủy gió lộng bốn mùa này. Còn có cõi về nào hơn thế nữa!? Hãy sống tròn hạnh nguyện với nó, hỡi một Phước An, Tâm Pháp còn lại! Ừ! Tâm Pháp là ai nhỉ?! Là đệ tử của ngài Trừng San, quê Diên Khánh, tục danh là Nguyễn Dư, thường gọi là thầy Phượng. Thầy vào Phật Học Viện năm 1969 và nguyện canh giữ tiếng chuông Phật Học Viện đến trọn đời. Chỉ cần nghe tiếng chuông của thầy gióng lên từ cội nguồn là đủ cho tôi tự tại đi giữa lòng trần thế mà điều xấu ác nhiều hơn điều thiện như vây bọc kiếp người.
 
Rồi một ngày tôi quay về chùa Phước Điền để gặp gỡ huynh đệ cựu tăng. Tôi nghe pháp hữu Giác Tuệ nói như vầy: hằng khuya tôi ở Xóm Dừa bên kia một “nhánh sông đen” cạnh “phố” Phường Củi, nghe tiếng chuông Phật Học Viện ngân vọng rất ấm lòng. Được biết thầy Tâm Pháp thiếu gạo ăn, chúng ta xin cúng dường phần này được không? Hình như biên bản cuộc họp có ghi rõ sự nhất trí cao ý nguyện cúng dường này. Riêng tôi, từ khi nghe tiếng chuông đến lúc gặp mặt đầu đà Tâm Pháp trên 30 năm…Tôi rất hỗ thẹn nhưng vô cùng hạnh phúc được đóng góp công đức nhỏ nhoi muộn mằn này. Thầy Phượng đã ôm choàng tất cả huynh đệ trong buổi hội ngộ… Chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại trong kiếp luân hồi nào đó, dù dưới hình hài nào đi nữa. Trong đó có thể xác quyết tiếng chuông Phật Học Viện hôm nay là nhân lành của chúng tôi nói riêng và cảnh giới khác nói chung
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2010(Xem: 8033)
Người tham muốn ngủ nghỉ nhiều, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường, bộ ván; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm chẳng muốn làm gì hết, khi ngủ xong lại muốn ngủ nữa giống như các loài heo vậy đó, mất cả tự chủ và thể diện của mình. Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu, lười biếng, ăn không ngồi rồi. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng biết làm gì.
23/09/2010(Xem: 12443)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
22/09/2010(Xem: 14200)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này...
22/09/2010(Xem: 12651)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
22/09/2010(Xem: 14436)
Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng... Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
22/09/2010(Xem: 12482)
Trongtấtcả mọi giá trị có mặt ở đời, thì giá trị giải thoát khổ đau làtối thượng nhất, mọi giá trị khác nếu có mặt thì cũng xoay xung quanhtrục giá trị thật này. Vu lan là ngày lễ khiến mỗi người, dù xuất giahay tại gia đều hướng tâm nguyện cầu, thực thi hạnh nguyện giải thoát.Từ điểm nhìn này, thông điệp giải thoát của lễ Vu lan đem lại có nhữngý nghĩa, giá trị cao quý mà ngày nay mọi người thường hay tâm niệm đến... Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
22/09/2010(Xem: 6998)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
21/09/2010(Xem: 7794)
Gần đây, do có nhiều hình ảnh về Mạn Đà La chụp được trong các cuộc lễ cungnghinh Phật Ngọc cầu nguyện hòa bình thế giới tại các chùa ở hải ngoại và được đăng trên một số trang mạng điện tử toàn cầu, cũng như được phổ biến qua thư điện tử, có vị đã viết bài chỉ trích cho rằng đó là “hiện tượng mê tín không nên truyền bá,” đã làm một số Phật tử hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả.
21/09/2010(Xem: 9889)
Sợ hãi và lo âu sinh ra bởi sự tưởng tượng của đầu óc bị tác động bởi ngoại cảnh. Cuộc đời là một bức tranh di động, mọi vật đều thường xuyên thay đổi, không có vật gì trên thế gian này đứng yên vĩnh viễn. Những người trẻ trung khỏe mạnh sợ phải chết sớm. Những kẻ già yếu sợ sống lâu. Hạng người trung niên mong muốn được an vui quanh năm. Những điều hân hoan thích thú qua nhanh. Những việc không vui thường tạo ra sự âu lo lâu dài. Những cảm giác làm cho đời sống thăng trầm theo cái bản ngã hư huyễn, giống như con rối múa theo sợi dây.*** Đức Phật đã dạy: " Tham muốn sinh ra lo âu Tham muốn sinh ra sợ hãi, Ai dứt sạch tham muốn Không còn lo âu sợ hãi "
21/09/2010(Xem: 8259)
Muốnngồi thiền, trước chúng ta phải biết lý thuyết, sau mới thực hành được.Tại sao chúng ta phải ngồi thiền? Phật dạy trong bốn oai nghi chúng ta đều tu được hết. Bốn oai nghi là đi, đứng, nằm và ngồi. Tuy nhiên trong số bốn oai nghi đó, các Thiền sư nói chỉ có ngồi là thù thắng hơn cả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]