Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Để việc đi cúng là hoằng pháp đúng nghĩa

17/07/201022:21(Xem: 9458)
Để việc đi cúng là hoằng pháp đúng nghĩa


phat_2 (13)
Phận làm người xuất gia, việc đi cúng dường như xuất hiện đồng thời với chí nguyện phụng Phật, độ sanh. Đi cúng là đi đến nhà cư sĩ, đơn giản thì để chứng minh, chú nguyện cho một sở cầu nào đó của họ. Phức tạp hơn là thực hiện một lễ nghi nào đó như cầu an, cầu siêu, an vị Phật hay cúng nhà mới v.v… Đi cúng là một hiện tượng mà xung quanh nó xuất hiện nhiều quan điểm, thái độ đánh giá. Với một vài vị xuất gia, việc đi cúng dường như không phải là trách vụ cơ bản của hàng xuất sĩ, và do vậy họ đã cực lực lên án, thậm chí là cười nhạo, đả phá. Trong khi đó có một số vị khác tận lực, và thậm chí chấp nhận buông bỏ việc tìm cầu tri thức, thời khóa tu tập … để toàn tâm đi cúng khắp nhân gian.

 

Người viết là một kẻ xuất gia nên ít nhiều có thể nhận ra những chuyện vui buồn, ái ố phát sinh từ hiện tượng phức tạp và sinh động này. Bàn về việc đi cúng, người viết mong mỏi góp phần xây dựng một thái độ ứng xử khả dĩ trước thực tế đã và đang xảy ra trong hiện tình sinh hoạt của Phật giáo, dù ở bất cứ thời đại nào.

Vài nét về lịch sử vấn đề

Nếu nương vào định nghĩa sơ khởi ở trên thì đức Phật là người đầu tiên đi cúng theo sự cầu thỉnh của hàng tại gia cư sĩ. Đó là một lễ cúng nhà mới theo cách hiểu hôm nay. Theo kinh Trung Bộ trong thời gian đức Phật về quê hương thăm thân quyến, các vị hoàng thân Sakya nhân vừa làm xong một ngôi nhà lớn đã cầu thỉnh đức Phật quang lâm chứng minh, sử dụng lần đầu để “Các vị Sakya ở Kapilavatthu sẽ hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài. Thế tôn im lặng nhận lời.” (1)

Từ sự kiện này có thể thấy sự gia tâm chú nguyện như đức Phật cũng được xem như là một dạng thức của khoa nghi cúng kiếng. Trong một trường hợp khác, khi biết bệnh tình khó qua khỏi, đại thí chủ Anathapindika đã cho gia nhân đến cầu thỉnh riêng ngài Sariputta quang lâm tư gia. (2) Trước bệnh tình của thí chủ Anathapindika, tôn giả Sariputta đã có một bài thuyết giảng về giáo nghĩa vô thường và nhờ đó, cộng với thiện nghiệp đã gieo, thí chủ đã được sanh thiên sau khi bỏ thân tứ đại. Xem ra, việc cầu thỉnh chư tăng đến nhà thực hiện một số pháp thức nghi lễ khi người thân mất có liên hệ sâu xa đến trường hợp này. Không những thế ngay một kẻ sát nhân như Angulimala, sau khi xuất gia, vẫn có thể cầu nguyện cho người sản phụ bình an khi sinh nở. (3)

Từ đây có thể thấy, việc đi đến tư gia của người cư sĩ thực hiện các chú nguyện, nghi lễ nhằm đem đến sự bình yên cho họ đã xuất hiện ngay trong thời đức Phật, dẫu rằng hình thức thực hiện nghi lễ giản đơn, không phức tạp rườm rà về hình thức.

Tùy theo không gian và lịch sử phát triển, Phật giáo tại mỗi khu vực có những sắc thái về nghi lễ khác nhau trong việc thực hiện các nghi quy cúng kiếng tại nhà cư sĩ. Ở Việt Nam do sự ảnh hưởng, giao thoa của nhiều luồng văn hóa, do sự du nhập và đồng hành của các hệ Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền, việc đáp ứng các nhu cầu tâm linh mà ở đây gọi là đi cúng cho người cư sĩ, cũng hết sức phong phú và sinh động.

Những khó khăn và thuận lợi từ hiện thực đi cúng

Với một khảo sát chưa đầy đủ, chúng tôi cho rằng bất cứ người xuất gia nào cũng từng đi cúng hoặc có những liên hệ đến việc cúng kiếng. Thực tiễn cho thấy việc đi cúng xuất phát từ nhiều lý do: Vì lòng bi mẫn, vì mong mỏi hóa độ người, do mong cầu người cư sĩ ủng hộ các điều kiện tu tập, kiến lập đạo tràng và thậm chí do mong cầu được thỏa mãn những sở dục cá nhân … Trong những sắc thái muôn màu từ hiện thực đi cúng, việc đi cúng vì lòng bi mẫn, vì mong hóa độ người là những lý do chính đáng.

Mặc dù xuất phát từ lý do chính đáng và đúng pháp, nhưng trong thực tế, người xuất gia đã đối diện không ít khó khăn khi đi cúng tại tư gia cư sĩ. Trước hết, để đủ sức đáp ứng nhu cầu tâm linh cho người cư sĩ mà ở đây là việc đi cúng, người xuất gia cần phải có sức khỏe tốt. Vì trong thực tiễn đi cúng, đôi khi người xuất gia phải di chuyển qua lại những nơi giao thông trở ngại, và trong một số trường hợp còn gặp phải sự bất tiện về quy định thời gian. Bệnh tật, hao tổn sức lực và tâm lực trong khi đi cúng, là thực tế được ghi nhận từ hàng xuất gia trong khi thực hiện hạnh nguyện này.

Thêm nữa, có những người tại gia chưa bao giờ biết đến Phật pháp, nhưng khi gia đình có việc thì mong người xuất gia đáp ứng các nhu cầu tâm linh. Điều đó không có gì sai. Tuy nhiên do hạn chế về nhận thức nói chung và về Phật giáo nói riêng, do sự huân tập , đan xen các tập tục tín ngưỡng truyền thống, niềm tin gia đình… nên đã yêu cầu người xuất gia đáp ứng các nhu cầu tinh thần không phù hợp với pháp Phật. Cụ thể, đã có những trường hợp người cư sĩ yêu cầu bậc xuất gia thực hiện các nghi lễ theo khuôn mẫu Nho gia. Đã có những trường hợp đòi hỏi người xuất gia đáp ứng các yêu cầu của họ như là trách nhiệm bắt buộc. Có những trường hợp họ xem người xuất gia thực hiện các nghi lễ tâm linh cũng giống như bao công việc bình thường, và thậm chí không khác biệt mấy so với những nghề thấp nhất trong mức thang giá trị xã hội. Đây chỉ là vài trong số những lý do làm cho người xuất gia sơ tâm ái ngại, và đòi hỏi những người chuyên thực hiện việc đi cúng phải kiên tâm và vững chải, khi trải nghiệm các cung bậc ứng xử trong đời.

Về phương diện hoằng hóa, việc đi cúng là tiền đề thuận lợi trong việc thực thi sứ mạng hoằng pháp của người xuất gia. Vì thực tế có những người chưa bao giờ biết kính Phật trọng tăng nhưng khi gia đình hữu sự, họ sẵn lòng thực hiện mọi hướng dẫn của chư Tăng, miễn sao người thân của họ được an lành. Đây là dịp thuận lợi để hướng họ quy ngưỡng Phật pháp. Trước hết, nếu là việc vui như khánh thành nhà mới, hôn sự … thì sự chứng minh và tác thành của chư Tăng có tác dụng khuyến hóa người cư sĩ cần tăng tiến hơn nữa trong thiện sự của mình. Ngoài việc thực hiện các khoa nghi cần thiết thì một thời giảng ngắn về phương thức mưu sinh đúng pháp, sống làm sao cho hợp đạo làm người, là những đề tài thích hợp trong trường hợp này. Nếu đó là việc hệ trọng như hiếu sự, tang nghi thì sự hiện hữu của người xuất gia, ngoài chức năng gia tâm cầu nguyện, còn có ý nghĩa quan trọng là chia sẻ, động viên khuyến tấn hương linh đã khuất cũng như người hiện còn những giá trị Phật lý căn bản.

Người xuất gia nên xem việc hóa độ chúng sanh là trọng trách. Khi người tại gia thỉnh cầu với bất cứ lý do gì thì cũng nên xem đó là duyên khởi để hàng xuất gia thực hiện chí nguyện của mình. Họ cầu thỉnh, tức đã mở cửa, vấn đề là làm sao cho căn nhà đó bừng sáng trong ánh sáng Phật pháp, là trách vụ quan thiết của hàng xuất gia.

Với truyền thống văn hóa ảnh hưởng khá nhiều yếu tố Phật giáo, người Việt khi hữu sự, mà nghĩa cụ thể được hiểu ở đây là việc tang, thường đến chùa cầu thỉnh chư Tăng thực hiện pháp sự. Đây là điều kiện thuận lợi để chư Tăng mở rộng khả năng giáo hóa của mình. Phải xem đó là vùng đất tuy không mới nhưng cần bàn tay chăm sóc của người xuất gia, để giao hạt trí tuệ và từ tâm. Cụ thể hơn, đi cúng để hóa độ người chứ không nên xem đó là dịp để mong người tạ ơn.

Những giải pháp gợi mở khi xem đi cúng cũng là hoằng pháp

Thứ nhất, cần phải nuôi dưỡng thường xuyên ý thức xem việc đi cúng là pháp phương tiện để đưa Phật pháp vào đời. Phương tiện vận dụng như thế nào là hợp lẽ, đó là điều người xuất gia cần phải suy tư, thẩm sát. Mặt khác, giữa phương tiện và cứu cánh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không thể tùy tiện vận dụng phương tiện lai tạp các yếu tố phi Phật giáo mà đòi hỏi cứu cánh tối thắng, an lành. Ở đây, trong khi thực hiện pháp cúng kiến, thì đừng nhân danh phương tiện để biện minh cho những lễ nghi tiêu tốn quá nhiều tài lực, tâm lực và thời gian của người cư sĩ. Biện sự nghi lễ của Phật giáo về cơ bản bao giờ cũng phù hợp với phong văn hóa của từng vùng, miền, dân tộc và điều kiện cụ thể của người cư sĩ.

Thứ hai, không yêu cầu đáp trả, không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì khi thực hiện nghi lễ cho người tại gia. Pháp phật là pháp thượng nhân, dùng pháp Phật để mong cầu sự thi ân đáp trả là điều không hợp lẽ. Có thể, do thói quen ứng xử văn hóa, người tại gia sẽ băn khoăn nếu như chư Tăng không chấp nhận sự tạ lễ sau khi một nghi lễ nào đó hoàn thành. Trong hoàn cảnh này, việc thọ nhận và chúc phúc cho hàng cư sĩ là việc cần làm. Tuy nhiên, đối với hàng tại gia thâm tín Tam bảo, thì cần phải trang bị cho họ ý thức phụng sự Tam bảo vượt thoát khỏi ý niệm đáp trả, đền ơn. Cúng dường trong tâm thế này được Phật tán thán, vì công đức luôn vượt lên trên mọi cúng phẩm bình thường khác.

Thứ ba, ngoài chư Tăng ra, trong một số bối cảnh, người Phật tử tại gia có thể góp phần thực hiện một số nghi lễ. Đó là một khóa tụng kinh, một thời hộ niệm, một sự bày biện đúng pháp cho một nghi lễ, đàn tràng. Sự phối hợp nhuần nguyễn giữa hàng xuất gia và Phật tử tại gia trong nghi quy cúng kiến là một minh chứng cho sự phát triển Phật giáo ở mọi thời kỳ. Với quỹ thời gian có hạn của một người xuất gia, với số lượng đông đảo cùng nhiều yêu cầu nghi lễ của cùng quần chúng tại gia, nếu như không có hàng Phật tử tại gia cùng gia tâm hỗ trợ trong một số nghi quy cần thiết, thì đôi khi người xuất gia không còn sức lực và thời gian để nghiên tầm kinh điển, để tự tu và chuyển hóa bản thân. Theo Phật, học Phật là để tự mình chuyển hóa, chứ không nên chỉ mong cầu nhỏ nhoi là được người xuất gia thực hiện tang lễ lúc cuối đời.

Thứ tư, căn cứ vào kinh điển, thì thời khắc trước khi lâm chung quan trọng gấp ngàn lần những nghi sự cúng kiến sau khi mất. (4) Cho nên việc hỗ trợ của hàng xuất gia cần tập trung vào thời khắc quan trọng này. Trong những hoàn cảnh bất khả, thì sự chia sẻ những kiến thức căn bản về giáo lý vô thường, quan điểm xả ly, không chấp thủ… là những trang bị cần thiết cho người hấp hối mà người tại gia có thể thay mặt hàng xuất gia góp phần thực hiện. Vì lẽ, trang bị tư lương Phật pháp, bất kể đó là thời điểm nào, không bị bó buộc trong giới hạn cư sĩ hay chư tăng.

Cuối cùng, cần phải hiểu rằng, cúng kiếng hay sự gia tâm chú nguyện là giải pháp không được Phật đánh giá cao. Hình ảnh nhận chìm hũ dầu xuống nước và đập vỡ nó ra, mảnh sành sẽ chìm xuống và dầu sẽ nổi lên dù được cầu nguyện bằng cách nào đi chăng nữa, là ẩn dụ sinh động về chuyện cúng kiếng được Phật dạy trong kinh Tương Ưng. (5) Cần nuôi dưỡng ý thức đó thường xuyên để có một cái nhìn thông thoáng hơn khi vận dụng nghi quy cúng kiến, phụng sự cho người.


1. Kinh Trung Bộ, kinh Hữu Học số 53.
2. Kinh Trung Bộ, tập 3, kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc, số 143.
3. Kinh Trung Bộ, tập 2, kinh Angulimala, số 86.
4. Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại phẩm, kinh Phagguna.
5. Kinh Tương Ưng, tập 4, Thiên sáu sứ, chương VIII, Tương ưng thôn trưởng, kinh Người đất phương tây hay người đã chết.

( Nguồn: NSGN số 198 )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2021(Xem: 4369)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9299)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5822)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7140)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5824)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6424)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6444)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5594)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3932)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 4021)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]