Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

V. CON NGƯỜI BẤT TỬ

21/05/201311:53(Xem: 4341)
V. CON NGƯỜI BẤT TỬ

HÉ MỞ CỬA GIẢI THOÁT

Thiền Sư Thích Thanh Từ

--- o0o ---

V

CON NGƯỜI BẤT TỬ

Thế theo lời yêu cầu của vị Ðại diện Tăng Ni hôm nay, tôi nói với quý vị về “Con người bất tử” trong đây tôi chia làm ba phần: Con người bất tử, ngay con người sanh tử có con người bất tử, nhập con người bất tử, ba phần nầy thật là hệ trọng, phần một phần hai tôi giải quyết được, phần ba tôi chỉ dẫn Kinh làm chứng, vì việc này tôi chưa làm xong.

Con người bất tử.

Thế nào là con người bất tử? Ở đây tôi nói con người bất tử, chính trong Kinh nói là pháp thân, là Như Lai, là Chơn Tâm, là Niết bàn... chính đó là cái bất tử sẵn có nơi chúng ta. Nhập được cái đó gọi là Như Lai, là Phật vv... Ðây tôi nói danh từ, nhận ra con người bất tử là gì? Quý vị thường tụng Kinh Pháp Hoa, nhớ phẩm mười sáu Như Lai Thọ Lượng, tức là tuổi thọ của Ðức Phật trong kinh Phật kể tuổi thọ là bao nhiêu. Ai có thể tính được? Phật nói tổng quát thế nầy, giả sử có người đem thế giới tam thiên đại thiên nghiền nát thành bụi, mỗi hạt bụi làm mực, người ấy dùng thần thông đi qua cả trăm ngàn thế giới mói chấm một hạt bụi xuống, cứ như thế nào đến chấm hết mực của thế giới tam thiên đại thiên, gom hết những thế giới đã chấm mực và không chấm mực ấy, nghiền nát thành bụi, mỗi hạt bụi tính thành một kiếp, tuổi thọ của Phật là bao nhiêu? Ðó là lỗi nói để diễn tả con người bất tử. Bất tử là không chết, bởi không chết nên tuổi thọ không làm sao tính toán được.

Như thế, đã biết rõ con người bất tử là mãi mãi không chết song tại sao tôi nói bất tử mà ở trong Kinh nói Vô Sanh (Niết Bàn)? Sao tôi không nói Vô Sanh lại nói bất tử, vì tất cả thế gian thích sanh, sợ tử. Nói vô sanh thì họ buồn, nói bất tử thì họ chịu, nên tôi phải nói con người bất tử. Thật ra có sanh thì có tử, không sanh thì lấy đâu mà tử. Cho nên trong Kinh nói vô sanh là chỉ thẳng cái nhơn, nhơn không thì quả làm gì có. Chúng ta quen nói bất tử thì chịu, nó vô sanh thì không ưa. Ðây là lý do tôi nói khác trong Kinh. Nếu chúng ta nhận ra con người bất tử thì đó là Như Lai, vì thế nói tuổi thọ Như Lai không thể tính, không thể đếm, không làm sao biết được hết. Một nhà toán học tài tình cũng không tài nào tính nổi.

Kế phẩm Như Lai thọ lượng đến phẩm thứ mười bảy tên là Phân Biệt Công Ðức. Phân biệt là so sánh, so sánh người nhân hiểu tuổi thọ Phật, khác với những làm việc bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn... tôi dẫn một đoạn Phật nói “Nếu người nào khởi một niệm tin hiểu tuổi thọ Như Lai thì người có công đức không thể tính lường được”. Lại một đoạn nữa. Ðức Phật nói: Nếu có người thiện nam thiện nữ, đối với thọ mạng Như Lai tin hiểu không nghi, người đó chính họ sẽ thấy Phật ở núi Kỳ Xà Quật. Vì các Vị Bồ Tát lớn và các vị Thanh Văn vây quanh nói pháp. Nghĩa là ai đối với thọ mạng dài của Phật, hiểu được thì người đó thấy Phật ở Hội Linh Sơn và nói pháp. Tại sao? Bởi thấy được con người bất tử là thấy Phật. Phật Thích Ca là thân xác thịt, con Phật ở đây nói là Phật Pháp thân. Nơi Phật Thích Ca có con người bất tử. Nhận ra được gọi là thấy Phật. Ðó là hiệu nghiệm của người nhận ra “Con người bắt tử”.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan khi nghe Phật giải thích trong cái sanh diệt có cái không sanh diệt. Ðến đoạn cuối Thất Ðại, Ngài tỉnh ngộ, tỉnh ngộ rối, Ngài làm một bài kệ tán Phật, Pháp và nói lên chí nguyện của Ngài. Bốn câu đầu là:

Diệu trạm tổng trì bất động tôn,

Thủ Lăng Nghiêm vương thế hy hữu

Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng.

Bất lịch tăng ký hoạch pháp thân.

Bốn câu đó thôi, quý vị thấy khi nhận được con người bất tử là có lợi ích lớn. Câu đầu tán Phật “Diệu trạm là nhiệm mầu trong lặng, tổng trì là gồm nhớ giữ, bất động là chẳng lay động, tôn là đấng tôn trọng, chỉ Ðức Phật là bậc nhiệm mầu trong lặng là gồm nhớ giữ, là không lay động. Câu thứ hai tán thán Pháp Phật, nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm là vua các kinh thật ít có trên đời. Nhờ nghe các kinh nầy Ngài tiêu được cái tướng điên đảo muôn ức kiếp. Khi ngộ được pháp thân thì nó tiêu tan hết. Thế nào là tướng điên đảo? Tướng điên đảo là cai gì mà tưởng thật. Cái thật mà tưởng là không bao giờ thấy cái giả hẳn là giả, cái thật hẳn là thật chớ chẳng phải là không. Quý vị thấy chỉ nhận đúng thì tướng điên đao liền tiêu. Ðến câu cuối “Bất lịch tăng, kỳ hoặch pháp thân” nghĩa là không trải vô số kiếp mà được pháp thân. Tại sao vậy? Bởi vì trong kinh nói người tu theo đại thừa tiệm thứ từ sơ phát tâm trải qua thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng và tứ gia hạnh là trải qua số kiếp thứ nhất, gọi là tam thiền. Từ sơ địa đến bát địa là vô số kiếp thứ hai. Từ bát địa đến qua Diệu Giác (Phật) là vô số kiếp thứ ba. Người tu đến sơ-địa mới thấy được pháp thân. Cho nên hàng sơ-địa Bồ Tát gọi là phá một phần vô minh thấy một phần pháp thân, cũng gọi là phần giác. ngài A-Nan không cần trải qua số kiếp mà thấy được pháp thân, nên nói “Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân, nên nói “Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân”. Như vậy là tu vượt bực, cho nên nói là “đốn ngộ” thấy được một cách nhanh chóng, không cần thứ lớp, đây là lợi ích,khi nhận nơi mình có con người bất tử.

NGAY CON NGƯỜI SANH TỬ CÓ CON NGƯỜI BẤT TƯÛ

Lý thật là ngay con người sinh tử đã có con người bất tử. Bọn phàm phu chúng ta si mê nên chẳng thấy. Chư Phật, Bồ Tát và những người đạt đạo đều nhận thấy. Thiền sư Huệ Nam ở Hoàng Long nói: “Người người trọn nắm hạt châu linh xà, mỗi mỗi tự ôm hòn ngọc Linh Sơn mà không tự hồi quang phản chiếu. Nhớ châu quên chỗ nơi đâu không nghe nói. Khi ứng lỗ tai dường như hang trống, tiếng lớn tiếng nhỏ đều đầy đủ: khi ứng con mắt như ngàn mặt trời, muôn tượng không thể trốn hình bóng; nghĩ suy theo hình sắc mà tìm, dù Tổ Ðạt Ma từ Tây Trúc sang cũng chịu thua”.

Hạt châu linh xà hay hòn ngọc Long Sơn đều chỉ cái sẵn có, chẳng sanh chẳng diệt nơi chúng ta. Ngay nơi thân sanh diệt đã có cái không sanh diệt. Nó ứng ra lỗ tai thì tiếng lớn tiếng nhỏ đều đủ. Ứng ra con mắt thì muôn tượng không thể trốn hình bóng. Thế mà chúng ta quên nó, cứ chạy theo cái suy nghĩ cho là tâm mình. Bản chất cái nghĩ suy là nương tựa với hình sắc âm thanh bên ngoài, là tướng sanh diệt. Nếu chúng ta cứ bám chặt vào nó, dù Tổ Ðạt Ma từ Tây Trúc sang, cũng không làm sao chỉ cho chúng ta thấy tánh được. Chúng ta phải quay lại xem nơi mình, sáu cửa hằng phóng quang ấy, từ đâu mà ra, khả dĩ chúng ta sẽ nhận thấy hạt châu linh xà hay hòn ngọc Linh Sơn.

Thiền sư Việt Nam ngài Thuận Chơn nói kệ: Chơn tánh thường vô tánh: Chơn tánh thường không tánh Hà tằng hữu sanh diệt: Ðâu từng có sanh diệt Thân thị sanh diệt pháp: Thân là pháp sanh diệt Pháp tánh vị tằng diệt: Pháp tánh chưa từng diệt. Ở đây nói pháp tánh tức là pháp thân. Thân tứ đại là pháp sanh diệt nên nói “Con người sanh tử” pháp thân không ngoài thân tứ đại nầy mà có, nếu khéo nhận ra, khác nào trong ngọn núi cháy, lượm được hòn ngọc tươi nhuần.

NHẬP CON NGƯỜI BẤT TỬ

Phần này, chúng tôi chỉ dẫn Kinh qua lời dạy của đức Phật cho quý vị thấy lối vào. Cũng trong Kinh Lăng Nghiêm sau lời kệ tán Phật và thề nguyện rồi, ngài A Nan bạch Phật:Ví như kẻ lang thang được nhà vua tặng cho một ngôi nhà đẹp vô cùng, được nhà đẹp rồi, không biết cửa nào vô mà làm sao vô? Yêu cầu Phật chỉ cho cái cửa để vô nhà, sau đó Phật bảo 25 vị thánh thay nhau trình sở ngộ của mình, để chọn cái căn cơ thích hợp và cái cửa tiến vào ngôi nhà này. Như vậy ngộ rồi là biết mình có hòn ngọc báu hay biết mình có ngôi nhà đẹp, nhưng vào cửa chưa được để ngồi nghỉ ngơi trong nhà, còn phải nhập được. Vì vậy nên Kinh Pháp Hoa khai thị ngộ nhập. Ngộ là nhận ra, nhập là tiến thẳng vào, chứ không phải ngộ rồi là hài lòng nơi đó. Vào được trong mới thật là sống với cái “bất tử”. Thế nên người ngộ thì bớt được tưởng điên đảo song hoặc vi tế chưa hết, vẫn còn tham vẫn còn sân. Chừng nào nhập được mới sạch hết cái hoặc vi tế, chúng ta biết rõ người tu muốn nhập được tri kiến Phật hay con người bất tử thì công phu rất chín chắn, rất cẩn mật, chớ không phải là thường. Song nhập ở đâu và nhập bằng cách nào? Tuy chúng ta chưa nhập, nhưng thấy con đường về nhà và cái nhà của chúng ta ở chỗ nào, đi bao lâu tới để khỏi lầm. Trong kinh Niết bàn bài kệ đơn giản nhất mà cũng đầy đủ nhất là:

Chư hạnh vô thường: Các hạnh vô thường

Thị sanh diệt pháp: Là Pháp sanh diệt

Sanh diệt dĩ diệt: Sanh diệt diệt rồi

Tịch diệt vi lạc: Tịch diệt là vui

Các hành là hành nghiệp thuộc vô thường là pháp sanh diệt. Vọng tưởng của mình có phải là hành nghiệp không? Một niệm dấy lên là hành nghiệp. Hành nghiệp tế. Hành nghiệp ra thân khẩu là hành nghiệp thô. Vì vậy, còn một niệm là còn hành nghiệp. Nó thuộc về vô thường, vừa dấy niệm lên là sắc tướng sanh diệt, danh diệt là vô thường, nếu bám vào vô thường thì muôn đời không bao giờ nhập được con người bất tử. Người bất tử cái chân thường phải buông tức là tôi nói rũ sạch các duyên vô thường rồi, mới nhập được con người bất tử. Cho nên nói sanh diệt rồi tịch diệt là vui, tức là cái mầm sanh diệt diệt hết, cái tịch diệt hiện tiền kế đó là vui.

Giờ đây, tôi sang một đoạn kinh Di Ðà trong kinh Phật nói: Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn chuyên trì danh hiệu, nhược nhất nhật nhược nhị nhật, nhất tâm bất loạn, kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A Di Ðà Phật dự chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền” Ngài nói nếu có người thiện nam hay thiện nữ chuyên trì danh hiệu Phật A Di Ðà, hoặc một ngày hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn là gì? Loạn là duyên sanh tử, loạn là động, còn niệm tức là còn dấy động, còn loạn là sanh tử. Nhất tâm là như như bất động là nhập được con người bất tử. Nhập được như vậy, kinh Niết bàn gọi là “Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt mới là cái chơn thật, Phật A Di Ðà dịch nghĩa là Vô Lượng Thọ, tức là tuổi thọ vô lượng. Tuổi thọ vô lượng là con người bất tử chứ gì. Cõi Cực Lạc là vui tột, không còn sanh tử chẳng phải vui tột là gì?.

Quý vị so sánh Kinh Niết Bàn có vẽ trừu tượng, nói cái sanh diệt rồi, cái tịch diệt rồi, cái tịch diệt là vui. Mình không biết cái tịch diệt là vui thế nào. Người nào hết mầm sanh diệt, được tịch diệt rồi sẽ thấy, kinh A Di Ðà nói có vẽ phấn khởi hơn, vì khéo dùng lối nhân cách hóa và cụ thể hóa. Nói rằng người niệm Phật, được nhất tâm bất loạn, khi sắp lâm chung sẽ thấy Ðức Phật A Di Ðà đến tiếp đón. Tức là có một đức Phật như con người đến đón mình về cõi Phật, là nhân cách hóa cõi Cực Lạc là nơi an vui tột độ. Là cụ thể hóa, cái vui của người tu là thoát ly được sanh tử, nếu thoát ly được sanh tử mới thật là vui. Chữ khổ trong tứ đế là gì? Tức là vô thường, còn bị vô thường chi phối là khổ, tứ khổ khổ, vân vân... đều y như trong lý vô thường, vì vậy muốn hết khổ phải hết mầm sanh tử, mầm sanh tử diệt rồi, cái đó mới thật vui. Ðây là nhập con người bất tử. Nhập được con người bất tử, chừng đó tha hồ tự do tự tại. Nói theo kinh Di Ðà thì được rước về cõi Cực Lạc tha hồ mà hưởng đủ thứ vui.

Dẫn chứng thứ ba là Kinh Lăng Nghiêm. Trong kinh Bồ Tát Quán Thế Âm, kể lại hạnh tu của Ngài cho đức Phật và đại chúng nghe, tôi dẫn một đoạn chánh văn: “Sở ư văn trung, nhập lưu vong sở, sở nhập kỳ tịch, động tịnh nhi tướng, liễu nhiên bất sanh, như thị tiệm tăng, văn sở văn tận, tận văn bất trụ, giác sở giác không, không giác cực viên, không sở không diệt, sanh diệt dị diệt, tịch diệt hiện tiền, hốt nhiên siêu diệt, thế xuất thế gian thập phương viên minh, hoạch nhi thù thắng, nhất giả thương hợp thập phương chư Phật, bổn diệu giác tâm, dư Phật Như Lai, đồng nhất từ lực, nhị giả, hạ hợp thập phương nhất thiết lục đạo chúng sanh, dữ chư thánh chúng đồng nhất bi ngưỡng”.

Ðoạn nầy Ngài kể lại công hạnh tu hành cho đến tịch diệt “sở ư văn trung” là trong tánh nghe ban đầu “nhập lưu văn sở” tức là nhập được tánh nghe rồi quên hết những tiếng động bên ngoài “sở nhập kỳ tịch, động tịnh nhi tướng, liễu nhiên bất danh là cái sở nhập được sâu lặng rồi, thì hai tướng động tịch không còn nữa. “Như thị tiệm tăng” tới đó lần lần tiến lên. “Văn sở văn tận” tức là cái hay nghe và cái bị nghe đều hết. Cái hay nghe và cái bị nghe hết rồi cũng không dừng ở đó tức là “tận văn bất trụ” và phải tiến lên giác sơ giác không, cái năng giác và cái sở giác cũng phải hết nữa. Năng giác sở giác hết rồi thì “không giác cực viên” cái không giác tròn đầy, không sở cũng không diệt. Giai đoạn đó diệt rồi, mới đến sanh diệt dị diệt, tịch diệt hiện tiền, khi tịch diệt hiện tiền, bổng dưng siêu xuất cả thế gian và xuất thế gian thấy mười phương đều tròn sáng, được hai thứ thù thắng. Cái thù thắng thứ nhất là trên hợp với mười phương chư Phật, tâm diệu giác sẵn có của mình hợp với tâm diệu giác của chư Phật mình và Phật đồng một lòng tu. Hai là hợp với tất cả chúng sanh trong lục đạo, đồng một lòng bi ngưỡng. Trên hợp với chư Phật nên có lòng từ, dưới hợp với chúng sanh nên có lòng bi.

Ở đây chúng ta thấy rõ, muốn đi đến cứu cánh, cũng phải sanh diệt hết rồi, tịch diệt hiền tiền, không phải tới tịch diệt hiện tiền là hết. Chừng đó mới thấy siêu xuất của thế gian và xuất thế gian. Ðược siêu xuất thề và xuất thế gian rồi, mình mới hợp với chư Phật có lòng từ ban vui cho chúng sanh. Hợp với chư Phật có lòng từ ban vui cho chúng sanh. Hợp với chúng sanh khởi lòng bi, nhổ hết gốc khổ cho họ. Ðó là công hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Tôi đối chiếu sơ qua công hạnh nầy với mười mục chăn trâu trong nhà thiền. Thiền sư trước kia có phác họa mười mục chăn trâu để kẻ hậu tu thấy bước tiến từ thô đến tế của mình. Từ “Sở ư văn trung, nhập lưu vong sở” vào được trong tánh nghe quên hết tiếng bên ngoài. Ví như con trâu được chăn điều phục nắm mũi lôi nó về, nó quên cỏ quên lúa mạ ở ngoài, chỉ theo người chăn xoay trở lại, đến chỗ “động tịnh nhi tướng liễu nhiên bất sanh”. Khi con trâu thuần thục, chú mục đồng ngồi dưới cội cây thổi sáo, trâu nằm im trên bãi cỏ, không còn đi đứng phá phách gì nữa. Ðến văn sở tận là chỉ bức tranh không còn trâu chỉ còn thằng chăn. Ðến “giác sở giác không” thì thằng chăn mất luôn, năng giác sở giác đều không, rồi “không sở không diệt” là tới chỗ một vòng tròn, là mất luôn năng không sở không. Phải qua được vòng tròn nầy “tịch diệt hiện tiền” là bức tranh thứ chín “lá rụng về cội, chim bay về tổ” tức là hợp với tâm diệu giác của chư Phật, hợp với tất cả chúng sanh lòng bi ngưỡng, chỉ thiền sư buông thõng tay vào chợ, đem mình vào trong chúng sanh là bức họa thứ mười. Trong nhà thiền thường nói “Ông chỉ vào Phật giới chưa chỉ vào ma giới”. Phật giới là chỗ hợp với mười phương chư Phật. Ma giới là chỗ hợp với tất cả chúng sanh.

Thế nên người tu muốn đến nơi đến chốn là phải trải qua những giai đoạn như trên. Chớ không đơn giản. Vậy mà có một số người nghe hiểu sơ sài, hài lòng tưởng mình đã hay, uông trà ngâm thơ, cho như vậy là đúng. Ðây là bệnh không đi đến đâu hết, sanh tử vẫn còn nguyên huống là người chưa được gì hết!

Cho nên đường tu không đơn giản, không phải bình dị như người ta tưởng mà phải hết sức nổ lực, hết sức cố gắng, tận lực phấn đấu cho đến ngày viên mãn. Trong nhà thiền nói con người can đảm tột độ là “giết người mà không ngó lại” mới khả dĩ tiến đạo. Còn chúng ta mới rầy người khác buồn, thì đã nhìn lại rồi, xem mặt họ có buồn chăng. Chúng ta cái gì đã bỏ lại tiếc, đã qua thì ngó lại không bao giờ dám dứt khoát, bởi không dứt khoát, nên không tiến được, phải gan dạ dứt khoát, thì khả dĩ tiến tới chỗ cuối cùng. Con đường trước mắt của mình hoa thơm cỏ lạ dẫy đầy, song trên đường đi cũng gai chông không ít. Chúng ta không phải đi vào ngõ bí, đi vào lối cùng, mà đang đi đến chỗ vô biên vô tận. Thật là “nguồn cùng núi tột” nghi không lối, hoa nở liễu xanh riêng một thôn (Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, liễu ám hoa minh biệt nhất thôn). Vì vậy khi biết rõ chỗ đi của mình, đến đó có những cái gì để chúng ta hăng hái tiến lên, trong khi tiến đương nhiên phải có gai góc, khó khăn không phải làm cho chúng ta chùn chân, mà để cho chúng ta nỗ lực, để thấy khả năng của mình. Khi nỗ lực rồi, chúng ta dẽ thấy kết quả tốt, nhưng nói nỗ lực ở đây không phải bậm môi trợn mắt cả ngày như giận ai lắm vậy, nỗ lực ở đây là hằng tỉnh giác, lúc nào cũng tỉnh, lúc nào cũng giác. Ðược như vậy chúng ta mới rũ sạch duyên sanh tử, vào được con người bất tử. Ðó là chủ yếu tôi muốn nói chuyện với quý vị hôm nay.


--- o0o ---

Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2022(Xem: 2600)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 2310)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
02/03/2022(Xem: 5966)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 3863)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3844)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 2523)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 2515)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 5858)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 3426)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 2340)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567