Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

III. THẤY THÂN GIẢ CÓ PHẢI QUAN NIỆM CHÁN ÐỜI CHĂNG

21/05/201311:48(Xem: 3992)
III. THẤY THÂN GIẢ CÓ PHẢI QUAN NIỆM CHÁN ÐỜI CHĂNG

HÉ MỞ CỬA GIẢI THOÁT

Thiền Sư Thích Thanh Từ

--- o0o ---

III

THẤY THÂN GIẢ CÓ PHẢI QUAN NIỆM CHÁN ÐỜI KHÔNG?

Ða số người nghe trong kinh Phật nói “xem thân như huyễn hóa” cho là tâm trạng bi quan, yếm thế. Trái lại nhà Phật thấy thân như huyễn hóa là sức mạnh để làm lợi ích chúng sanh. Như nói “Bồ Tát lấy thân như huyễn độ chúng sanh hữu tình như huyễn”, bởi Bồ Tát thấy thân hình không thật nên sẵn sàng lăn xả vào làm việc lợi ích chúng sanh, dù gặp khó khăn nguy hiễm cũng không ngán sợ, vì thân như huyễn có mất cũng không gì quan trọng. Thấy chúng sanh hữu tình như huyễn nên độ chúng sanh mà không chấp nhơn ngã. Thấy thân như huyễn, khiến người ta mạnh mẽ lên, không còn sợ hãi, trước vạn vật biến thiên mà tâm hồn mình vẫn an lạc tự tại... Ta hãy nghe bài kệ của Thiền Sư Vạn Hạnh:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thạnh suy vô bố úy

Thạnh suy như lộ thảo đâu phô

Dịch:

Thân như bóng chớp có rồi không

Cây có xuân tươi, thu đượm hồng

Mặc cuộc thạnh suy không sợ hãi

Thạnh suy như cỏ hạt sương đông.

Biết bao lời Phật, ý Tổ trong các kinh, luận thấy thân như huyễn đã đạt tinh thần vô úy như thế.

THẤY THÂN NHƯ HUYỄN HÓA LÀ ÐÚNG LẼ THẬT

Phật giáo nói thân này do tứ đại hòa hợp thành nên không chắc thực bền lâu. Tứ đại là đất, nước, gió, lửa, bốn thứ này bủa khắp trời đất vạn vật nên nói là tứ đại. Chất cứng trong thân là đất, chất ướt là nước, chất động là gió, chất ấm là lửa, bốn chất này thiếu một thì sẽ bị hoại. Song bốn chất này luôn luôn thù địch chống đối nhau. Lửa không ưa nước, đất không ưa gió, ngược lại cũng thế. Khi lửa thạnh hơn nước sanh nóng bức ban đầu; gió thạnh hơn đất sanh nhọc nhằn đau nhức; chúng hằng chống đối nhau, nên lúc nào thân này cũng sẵn sàng bệnh hoạn hay chực tan rã. Ta khéo điều hòa thì thân này còn an ổn, không khéo chúng lại băng hoại. Sự băng hoại của thân thật là bất định, một mạch máu bể, một cái sảy chân, một luồng gió độc, một viên đạn xuyên qua là... mất mạng. Sự hòa hợp của tứ đại thật là khó khăn không đảm bảo lâu dài, vì chúng mang bản chất thù địch nhau. Như bốn người thù địch nhau chung làm một công tác, nếu thiếu một trong bốn người thì công tác phải đổ vỡ. Thử hỏi chúng ta dám bảo đảm bốn người này hòa hợp lâu dài chăng? Và công tác họ đang làm có thể thành tựu viên mãn không? thực không ai dám hứa điều đó hết, vì thấy rõ tính chất thù địch của chúng. Sự hòa hợp của bốn kẻ thù, dù ai ngu tối mấy cũng biết rất tạm bợ mỏng manh. Thế thì, nói thân tạm bợ hư dối là nói đúng sự thật không còn ngi ngờ gì nữa.

Chẳng những sự hòa hợp của chúng rất tạm bợ mỏng manh, chính khi đang hòa hợp, chúng cần phải vay mượn tứ đại bên ngoài hỗ trợ mới được tồn tại. Sự vay mượn tứ đại bên ngoài bị thiếu hay ngưng trệ, nguy cơ tan vỡ xuất hiện ngay. Lỗ mũi chúng ta đang hít thở là mượn gió, miệng ta uống nước, ăn cơm là mượn nước, mượn đất và lửa. Sự vay mượn ấy được thuận chiều ổn thỏa thì thân an vui khỏe mạnh. Sự vay mượn bị trở ngại khó khăn, là thân đau đớn nguy kịch. Quả thật cuộc an vui hạnh phúc là do sự vay mượn và tống trả một cách an ổn điều hòa, ngược lại là sự sống bất hạnh. Sự sống còn là nhờ vay mượn làm sao dám nói thân nầy là thật, là lâu dài?

Thế mà người đời sí mê nhiều kiếp, cứ nghĩ thân nầy là thật, là lâu bền, là của ta. Thậm chí đất nước gió lửa bên ngoài là của thiên nhiên trời đất, mà một khi mượn vào xài, liền chấp của mình. Nhứ lỗ mũi vừa mượn không khí đem vào chưa đến một phút, thở trả ra liền nói hơi của tôi, nước, đất cũng chấp như vậy, một vật gì vừa qua thân nầy đều nói là của tôi. Không ngờ cái tôi này cũng vay mượn nốt. Bao nhiêu đó đủ thấy cái si mê chấp ngã của chúng ta quá nặng nề vì chấp ngã nên mù quáng, không thấy lẽ thật. Bởi vậy nên nghe nói thân này như huyễn hóa liền hằn học chống đối ngay.

Nếu thân này là thật, phải có bảo đảm tồn tại trong thời gian bao lâu. Quả thật không dám bảo đảm làm sao nói thân này là thật được. Có người ra chợ mua hàng, thấy món hàng vừa ý muốn mua, song còn ngại đồ giả. Chàng ta hỏi cô bán hàng: Ðây là đồ thiệt hay đồ giả? Cô bán hàng đáp: Ðồ thiệt! Tôi bảo đảm ông đồ tốt lâu bền... có thật mới bảo đảm, nếu giả không bảo đảm, trừ kẻ bướng bỉnh. Thân này đã không, có ai dám bảo đảm, nói giả dối là hợp lý còn gì nghi ngờ.

Song nói giả dối hay huyễn hóa để chỉ sự có mặt của nó rất tam bợ không lâu bền, không chủ tể, chớ chẳng phải không ngơ, không có gì hết. Có người bảo đạo Phật nói thân như huyễn hóa, tại sao các người tu đạo Phật vẫn ăn, vẫn mặc...? biết thân huyễn hóa, là biết một cách tạm bợ ngắn ngũi, dễ tan hoại, chẳng phải là không, sự ăn mặc đối vói nó là lẽ thường có gì phải nghi. Thấy được lẽ thật là tạm bợ của thân này, chúng ta phá cái chấp ngã sai lầm vô lý, dừng tay, không tạo nghiệp ác, đem lại sự cảm thông tương trợ lẫn nhau để được chút an vui trong cuộc đời tạm bợ.

THẤY THÂN HUYỄN HÓA ÐỂ TRỪ TAM ÐỘC

Tham, sân, si là ba con rắn độc sát hại người không thể kể xiết. Chẳng những chúng hại người trong đời nầy, mà còn gây tai ương không biết bao nhiêu kiếp nữa. Còn tham sân si là con người còn đau khổ. Thấy thân như huyễn hóa là lối nhìn đúng sự thật bằng con mắt trí tuệ. Con mắt trí tuệ mở sáng thì si mê tan biến là phá được si.

Si đã tan thì tham theo đó mà dừng. Tham hết thì sân không còn lý do trỗi dậy. Bởi si mê nên thân duyên hợp hư dối ta tưởng lầm là chơn thật quý báu. Do tưởng thân thật nên quý, nên sanh lòng tham muốn thu góp mọi nhu cầu mà thân ưa thích. Sự thu góp bị ngăn trở liền nổi sân lên. Thế là từ si khởi tham, từ tham sanh sân, tạo nghiệp gây khổ cho mình cho người. Hành giả biết rõ cội gốc của tam độc là si mê, dùng cây xẻng tí tuệ bứng tung gốc si mê lên. Gốc si mê đã tróc thì thân tham và cành lá sân cũng đổ ngã theo, cây tam độc ngang đây sẽ khô khan rã mục. Quả là chúng ta đã tháo được cây chốt cửa giải thoát. Bài kinh Bát Nhã bổ khuyết cho tất cả thời khóa tu tập chủ yếu là ở chổ này. chúng ta tu theo đạo Phật là đi trên con đường giác ngộ. Nếu không thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ thì mục đích giác ngộ ắt phải xa vời. Kinh Pháp cú Phật dạy “các ông tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Trong mười hai nhân duyên, bắt đầu từ vô minh, từ vô minh tiếp nối đến sanh tử luân chuyển. Vô minh diệt cho đến sanh tử diệt là hoàn toàn diệt. Do vô minh dẫn mãi đi trong luân hồi sanh tử. Vô minh là cái tên khác của si mê. Chúng ta đã thấy đích thực bộ mặt ác độc của hắn rồi, không ra tay tiêu diệt hắn, biết bao giờ chúng ta mới hết khổ. Vì thế hành giả thẳng tay trừng trị đích đáng kẻ ác độc nầy với cây kiếm trí tuệ cầm sẳn trong tay. Bất cứ nơi chốn nào, thời gian nào, hành giả bằng lia kiếm trí tuệ, bọn quân si mê ngã rạp không còn một đứa dám sáp lại gần là thắng trận, trên đường tiến đến thành giác ngộ. Ngược lại, là kẻ bại trận không thể cứu.

THẤY THÂN HUYỄN HÓA ÐẠT ÐẾN KHÔNG HUYỄN HÓA

Lý do không bi quan của đạo Phật là thấy thân huyễn hóa để đạt đến không huyễn hóa. Không phải như những kẻ phàm phu tục tử, có lúc nhàn hạ ngồi yên suy gẫm cuộc đời, thấy nó ngắn ngũi tạm bợ đâm ra chán chường kinh hoàng. Thấy cuộc sống đi vào ngõ cụt, họ ê chề chán ngán có khi liều mình tự tử. Hành giả dùng trí tuệ quán sát thấy thân đúng lẽ thật, nó hư dối tạm bợ không có gì đáng quý. Song lại có cái chân thật tàng ẩn trong ấy, chỉ có người đạt đạo mới thấy được. Ta hãy nghe ba câu trong bài ca Chứng đạo của Thiền sư Huyền Giác.

“Huyễn hóa không thân tức pháp thân

Pháp thân giác liễu vô nhất vật

Bản nguyện tự tánh Thiên Chơn Phật”

Ngay trong thân không thật huyên hóa nầy tức là pháp thân. Giác ngộ pháp thân thấy không có một hình tướng sự vật gì. Pháp thân nầy cũng gọi là bản nguyện, tự tánh. Thiên Chơn Phật. Pháp thân là tên khác của tâm thể lặng lẽ, tràn đầy trong sáng của mọi chúng ta. Nó không có hình tướng nên không bị vô thường, không dấy động nên không sanh diệt, hàng trong sáng nên chẳng phải ngu ngơ. Vì chúng ta quen nhìn cái gì cũng theo hình tướng, theo dấy động mới cho là có, ngược lại cho là không? để sáng tỏ ý này, chúng ta nghe lời đối đáp của thiền sư Hoài Nhượng với Lục Tổ. Sư đến Tào Khê Lục Tổ hỏi: Ở đâu đến? Sư thưa: Ở Trung Sơn đến. Tổ hỏi: Vật gì đến? Sư thưa: Nói in tuồng một vật tức không trúng. Tổ hỏi: Lại có tu chứng chăng? Sư thưa: Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được. Tổ bảo: Chính cái không nhiễm ô nầy là chỗ bộ niệm của Chư Phật, người đã như thế, ta cũng thế.

Tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng có sẵn trong mọi người. Nên nói là bản nguyên, là tự tánh. Tại vì vọng tưởng dấy khởi liên miên, khiến chúng ta chỉ thấy vọng tưởng, không thấy được tâm thể nầy. Bỏi chỉ thấy vọng tưởng nên chấp nhận vọng tưởng làm tâm mình, hài lòng ngang đây, cam chịu nó lôi chạy trong lục đạo luân hồi. Mỗi vọng tưởng dấy lên, mỗi niệm khởi, đã cắt xén tâm thể tràn đầy thành những mãnh vụn. Những mãnh vụn này tung tóe lên che khuất tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng. Như mặt biển lặng lẽ, tràn đầy trong sáng một cơn gió mạnh thổi qua, những lượn sóng trỗi dậy nối tiếp, đã cắt xén mặt biển phẳng lì thành vô lượng mãnh vụn, đang săn đuổi nhau. khi nầy người ta nhìn không còn thấy mặt biển phẳng, chỉ thấy bao nhiệu lượn sóng gầm thét rượt nhau.

Sóng đã dạy làm sao dừng? Chỉ khi nào gió lặng. Sóng Tâm muốn dừng chỉ khi nào gió nghiệp lặng. Vọng tưởng dấy lên đều có đối tượng. Ngã là pháp đối tượng chủ yếu của vọng tưởng. Nghĩ cái gì? Nghĩ về ta, về người hay vạn vật. Thấy thân duyên hợp như huyễn, cảnh duyên hợp như huyễn và vô hiệu hóa gió nghiệp. Ðã biết thân cảnh hư dối còn gì phải bận lòng, đối tượng đã phá vỡ thì vọng niệm không còn chỗ tựa để phát sanh. Thế là gió nghiệp lặng, sóng vọng niệm từ từ im bặt, chỉ còn mặt biển tâm lặng lẽ tràn đầy trong sáng như xưa. Công tác quan trọng của người tu là trí tuệ bát nhã, nhờ nó chúng ta mới phá được mê lầm muôn kiếp. Nó góp công lớn lao trong việc đem lại an bình cho tâm thể.

Vọng niệm dấy khỏi là loạn động, sanh diệt, là cắt xén vụn vặt, là che phủ ngạo dục. Có vọng niệm thì không thể thấy được tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng. Vì thế, mọi người đều có tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng mà ít người nhận ra. Ðã không nhận ra, dù tu hành cũng không tin mình thành Phật. Ðây là nguyên nhân lùi sụt của đa số người tu. Nghe trong kinh nói có chơn tâm Phật tánh, tri kiến Phật... thực tế không bao giờ họ nhận thấy mặt mày của nó. Tu lâu rồi họ xoay ra lo cất chùa to, tổ chức lễ lớn... lấy đó làm Phật sự, việc giác ngộ giải thoát xem như vô phần. Muốn thấy chơn tâm, Phật tánh, trước tiên chúng ta phải dừng vọng niệm đã dừng thì tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng hiện tiền. Chẳng cần cầu mong trông đợi cũng tự thấy. Vọng niệm không phải dễ dừng, nó đã thành một dòng sinh diệt liên tục trong chúng ta. Ðể chận đứng nó, trước tiên chúng ta phải đập nát đối tượng chủ yếu làm cơ sở phát sinh của nó là ngã và pháp. Dùng trí bát nhã thấy ngã pháp như huyễn hóa, là chiếc búa thần đập tan đối tượng chủ yếu của vọng niệm. Ðối tượng đã đỗ vỡ thì vọng niệm còn nương đâu phát sinh. Thế là, nhờ trí tuệ bát nhã thấy ngã pháp như huyễn hóa, hành giả đạt đến tâm thể chân thật không huyễn hóa.

BI TRÍ TRÒN ÐỦ

Trí tuệ khai phát, hành giả tháo gỡ lẫn những mối rối bòng bong trong tâm tư.l đến khi mọi việc suông sẻ, trí giác tròn sáng là xong phần tự giác. Phần giác tha do tâm từ bi thúc đẩy, đến lúc viên mãn thì công phu hành giả mới được tròn đủ. Khi thực hiện giác tha, hành giả phải chuẩn bị thế nào? Tâm từ bi là ban vui cứu khổ. chúng sanh có nhiều loại khổ, không ngoài hai thứ, khổ về vật chất, khổ về tinh thần. Khổ về vật chất tuy cấp bách song không trầm kha miên viễn bằng khổ về tinh thần. Thể hiện lòng từ bi bằng hành động bố thí, trong ba thứ bố thí, tài thí đứng đầu. Vì thích ứng với nhu cầu cấp bách vật chất, nên phải thực hiện tài thí trước, người đang đói rét mà mời đi nghe pháp là việc làm của kẻ khờ dại. Trước nhất, chúng ta phải cho họ có cơm ăn áo mặc, sau đó mới hướng dẫn đạo lý thâm sâu, do đó pháp thí đặt sau tài thí. Phật tử muốn cứu người thoát khỏi cái khổ trầm kha, miên viễn của tinh thần, trước phải lo giúp đỡ người giảm bớt cái khổ về vật chất. Vì thế, tuy thấy thân như huyễn hóa, các pháp như huyễn hóa, chúng ta vẫn cần cù lao động làm ra nhiều tài sản của cải để giúp những người cần giúp. Nhiên hậu mới đem chánh pháp hướng dẫn, giáo hóa họ. Thấy thân như huyễn, các pháp như huyễn, để rồi nhìn cảnh ngắm trăng nhịp đù ngâm thơ, là người không có lòng từ bi, không thấu hiểu ý nghĩa Phật dạy. Hoặc gặp ai cũng cố gắng khai mở trí bát nhã cho họ, mà không đếm xỉa gì đên bản thân người đang no hay đói, là kẻ thuyết pháp chẳng hợp thời cơ. Vì muốn cứu cái khổ trầm kha, miên viễn tinh thần của mọi người, chúng ta phải cố gắng nổ lực cứu cái khổ vật chất cấp bách cho họ trước đã. Ðược vậy, sự tự giác giác tha, chúng ta mới tròn đủ. Tự giác là trí, giác là tha là bi. Ðạo Phật chủ yếu đưa người đến giác ngộ, nên bi trí cũng đến một chữ giác.

KẺ SI MÊ NGƯỜI TRÍ TUỆ CAN ÐẢM HY SINH

Kẻ si mê can đảm hy sinh không ngoài ba yếu tố chính là tham lam, sân hận, si mê. Vì tham danh, tham lợi, tham sắc..., họ can đảm hy sinh, vì đam mê không mãn ý, họ can đảm hy sinh. Vì nóng giận h ận thù họ can đảm hy sinh. Sự can đảm hy sinh của họ do động lực bên ngoài thúc đẩy. Họ can đảm trong cái sợ sệt, hy sinh trong cái liều lĩnh. Người đời muốn lợi dụng lòng can đảm, hy sinh của họ bèn cám dỗ bằng danh lợi, kích động bằng hận thù, xây dựng bằng lý tưởng. Bởi không tự chủ được, họ phải làm theo cái gì mà người khác muốn họ phải làm. Cuộc sống của họ xem ra rất ngang dọc, anh hùng, song là cái anh hùng của người khác tạo nên. Họ hy sinh trong cái tự cao, ngã mạn trong nhắm mắt đánh liều.

Người trí tuệ can đảm hy sinh do nhận chân lẽ thật vì lòng từ bi cứu khổ chúng sanh. Khi thấy rõ thân này duyên hợp như huyễn, chúng sanh không biết chấp là thực, gặp cảnh khổ liền kinh hoàng, hoảng sợ. Người trí tuệ thấy thế dám hy sinh thân mình để đem sự an vui cho mọi người. Ðôi mắt trí tuệ với lòng từ bi, người trí tuệ can đảm hy sinh giúp người cứu vật, không do động lực khác nào thúc đẩy. Nói can đảm hy sinh mà thực không có gì đáng hy sinh. Bởi thấy thân như huyễn hóa, sự còn mất có đáng giá gì, gọi là hy sinh. Cho nên, hy sinh cho mọi người, vẫn không thấy có mình hy sinh, đây là tâm hồn Bồ Tát. Bồ Tát thấy chúng sanh khổ coi như mình khổ, xả thân mình giải khổ cho người là việc làm dễ dàng thường nhật của Bồ Tát.

KẾT THÚC

Qua những lý do trên, chúng ta được quyền khẳng định rằng thấy thân giả dối là đúng lẽ thật, là diệt trừ tam độc, là giải thoát sanh tử, tích cực vì người là can đảm hy sinh, không phải là quan niệm bi quan yếm thế. Mọi khổ đau, mọi hèn nhát, phắt nguồn từ cái ngã khổng lồ. Phá tan được bản ngã nầy, có sự lợi ích nào mà chẳng dám làm, sự đau khổ nào mà chẳng dám cứu, sự nguy hiểm nào mà chẳng dám xông vào. Bồ Tát Ðịa Tạng đâu không nói: “Nếu ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục”. Có phải chăng là một sức mạnh vô biên, khi thấy thân không thực. Chỉ trừ khi bọn phàm phu, sau khi trà dư tửu hậu, ngồi suy ngẫm cuộc đời, thấy kiếp sống mỏng manh của cuộc đời tạm bợ, nảy sinh ra quan điểm chán đời. Với cái nhìn của bọn người nầy không dính dáng vì với trí tuệ bát nhã. Trí tuệ bát nhã không rời từ bi. Bi trí viên mãn mới tròn Phật quả.

--- o0o ---

Trình bày:Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2022(Xem: 2608)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 2325)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
02/03/2022(Xem: 5986)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 3874)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3862)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 2530)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 2519)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 5880)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 3437)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 2356)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567