Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân cửa Thiền

13/05/201312:56(Xem: 10061)
Xuân cửa Thiền
Cho Trọn Mùa Xuân


Xuân Cửa Thiền

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-5Hôm nay ngày đầu xuân năm mới, ngày xuân tết, tôi chân thành gởi đến quý vị lời cung chúc tân xuân vạn hạnh.

Thưa quý vị, xuân trần gian là xuân theo thời tiết tháng năm, xuân nằm trong quỹ đạo luân hồi sanh diệt tương sanh tương tồn tương biến của hiện tượng âm dương đất trời. Vì bản chất tương sanh tương diệt thoạt hiện thoạt không của xuân trần gian, nên khi xuân đến xuân đi vạn vật cũng theo đó mà hiện tướng:

Xuân về hoa lá xanh tươi
Xuân đi hoa lá rã rời héo hon!

Bản chất của xuân trần gian thì mong manh theo thời gian hiện thành lẽ sanh diệt trong từng nhịp tim bóp thắt theo đó mà sanh ra hiện tượng thăng trầm tươi héo héo tươi, nên bàng bạc ẩn hiện trạng thái suy tàn ngay khi xuân đến và hiển lộ cảnh tượng tiêu điều khi xuân đi. Xuân đến lòng người rộn rã tươi cười, xuân đi ai đó hững hờ kém vui:

Hoa xuân không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in vết đau.

Bản chất của xuân trần gian là vô thường giả tạm, một thứ xuân ngoại cảnh hạn định theo thời gian mùa tiết, chứ nào phải xuân phát xuất từ nội tại xuân lòng. Do vậy một khi xuân lòng chưa nẩy nở, xuân tâm thức chưa khai mở thì, dòng sinh thức của chúng sanh vẫnphải còn ảnh hưởng buồn vui với hiện trạng của xuân trần gian ngoại tại. Nỗi u uẩn thầm kín nơi mọi cõi lòng người xúc động khi xuân đến xuân đi. Còn thấy xuân đến xuân đi thì còn lưu lại cảnh tượng tươi héo vui buồn, hân hoan tương phùng hay sầu bi ly biệt, còn hiện tượng hả hê chúc tụng hay chua xót rơi lệ đau thương trên khắp vạn ngả đường trần thế: Mẹ mong đợi con về để đoàn tụ ba ngày xuân tết, nhưng bóng hình con biền biệt. Vợ mỏi mòn ngóng trông chồng về đoàn tụ ngày xuân, nhưng xuân đã đến rồi xuân lại đi mà chồng vẫn biệt vô âm tín. Có kẻ than thầm trách phận: Xuân đến mà sự nghiệp dở dang tan tành, đã mấy mùa xuân rồi mà công chưa thành, danh chưa toại!

Xuân đến cũng là dịp để cho người trần thế tỉnh cơn mê trong trường canh mộng, có giây phút sống lại với chính mình sau những tháng năm lặn lội mệt mỏi trên đường đời và cất lên lời thương than cho vận nước: Mười mấy mùa xuân rồi mà đất nước vẫn băng hoại rách nát, dân tình vẫn thống khổ đói nghèo lầm than, người dân Việt hiền lành vẫn tiếp tục trong tình trạng hiểm nguy bỏ nước ra đi, người dân Việt vẫn còn cảnh trôi sông chìm biển chết rừng chết bụi. Đau đớn hơn nữa, cảnh tượng người ăn thịt người trên bể cả, ngục tù vẫn chưa hết áp bức hành hạ người thương nước yêu tự do. Đã bao mùa xuân đến rồi xuân đi, mà hằng vạn triệu người xa làng nước vẫn cam phận ngồi nơi đất khách, mang kiếp tha hương, với cõi lòng buồn thương tê tái trong mùa xuân ly hương vô vị, phải chứng kiến trạng huống phân ly chia rẽ của đồng bào ruột thịt cấu xé hãm hại lẫn nhau!

Xuân đến để làm gì hỡi xuân? Phải chăng để cho người trần thế chất chồng tuổi đời thêm cao, mà vẫn bụng trống lòng không, thực tế đối vời đời thì vô dụng, đối với đạo là chướng duyên, bởi đã đánh mất cái thiện tâm, cái thiên lương đã ô uế hoặc tự hủy cái tâm đạo đức, để ngày ngày đắm sâu vào danh lợi dục tình, tăng trưởng phàm tánh, gây họa hại cho đạo và đời! Nếu chỉ biết vui theo xuân trần gian để rồi đắm chìm trong ngũ dục lạc mà không biết phản tỉnh nội tâm để khai triển xuân lòng, xuân chơn thiện mỹ thì mỗi lần xuân đến chỉ chất chồng thêm tuổi tác già nua và đắm chìm sâu trong sông tình biển ái, quay cuồng lầm lạc trong bãi sa mạc tha ma nhục dục lỗi lầm, rốt cuộc tinh thần đói khát, trí huệ mịt mù không biết bao giờ mới ra khỏi trần lao. Nếu cứ sống mãi trong tình thức, tham tâm chấp kiến ngã si tà mạn, mơ tưởng viễn vông, si mê tham vọng, cảm tình mù quáng thì vô tình tự dối lương tâm, chỉ tạo thêm cùm kẹp xích xiềng để rồi tự hủy diệt bản chất thánh thiện xuân lòng mà xưa nay vốn sẵn có.

Xuân lòng chỉ nẩy nở, khi cõi lòng trong sạch, não phiền đã nhẹ vơi tâm thanh thản rộng mở. Cõi lòng thanh thản là khi thực sống với lương tâm mình trong trạng thái tâm hồn thanh tịnh, chính mình ý thức đối diện với lương tâm, tư duy quán chiếu, hồi quang giác tỉnh, thấy mình không hổ thẹn với chính lương tâm mình, lại thấy lòng phẳng lặng hồn nhiên không gợn sóng tà niệm lăng xăng, ấy là thời điểm của xuân lòng hiển lộ, hoa xuân lòng chớm nở.

Khi mà xuân lòng chưa hiển lộ thì dù cho mấy độ xuân trần gian đến đi, thì cũng vẫn chỉ như những đám mây hồng nhẹ trôi trong buổi hoàng hôn rồi tan biến, chẳng làm cho người cảm nhận được thanh khí mát lành mùa xuân. Thấu triệt lý sanh diệt xuân trần gian bọt bèo mong manh như bản tính của mây ngàn lãng đãng buổi hoàng hôn, như những hạt sương lóng lánh trên ngàn cây ngọn cỏ hoa lá buổi sáng tinh sương, cảnh tượng đó có bao giờ trường cửu? Bản chất của xuân trần gian vốn không trường cửu, nên đã lưu lại cho lòng người biết bao nỗi niềm chua xót! Bởi thế, một khi xuân lòng rộng mở thì xuân trần gian cũng theo đó trở nên tươi đẹp khắp cả mọi thời mọi nơi. Thi nhân đã nói:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Chỉ khi nào lòng người thanh tịnh thản nhiên tự tại trước mọi sự đổi dời của đất trời cảnh vật, thì lúc đó cõi lòng rộn nở hoa xuân, tâm xuân nhìn thấy đâu đâu cũnglà xuân, khắp vũ trụ hoa xuân tươi nở ngạt ngào. Thế nên, muốn hưởng mùa xuân chơn thường hạnh phúc thì trước nhất phải xây dựng tâm xuân. “Tâm xuân vũ trụ đều xuân.” Tâm xuân thì vạn vật xuân. Kinh Hoa-Nghiêm nói:

Tâm như công họa sư
Tạo chủng chủng chư pháp.

Tạm dịch:
Tâm như họa sĩ tài ba
Tùy theo cảnh vật tạo ra muôn ngàn.

Tâm không an thì cảnh vật u buồn ảm đạm thê lương. Dù cho xác pháo đầy đường, muôn hoa phô sắc để tô điểm cho xuân trần gian thêm phần hương sắc, mà tâm bất an thì xuân lòng vẫn chưa khai thác, tiếng hát xuân trần gian cùng với muôn ngàn hương hoa sắc thắm trên đời chỉ gợi thêm sự buồn tủi chua xót đau thương. Khi tâm người thanh tịnh, lòng người an định thì cảnh giới tâm linh rộng mở, lúc đó hoa xuân lòng mới rộn nở hòa điệu cùng hoa xuân đất trời. Bấy giờ tâm xuân rung động hòa điệu cảm thông với xuân vũ trụ. Khi tâm xuân hòa điệu cùng xuân vũ trụ tạo thành nguồn an vui bất tận, thì lúc đó nhạc xuân lòng hòa cùng nhạc xuân vũ trụ tạo thành bản nhạc muôn điệu vi điệu huy hoàng thanh thoát trong ánh xuân dương.

Tâm tịnh lòng an định thì không những toàn triệt chân lý vũ trụ, mà tâm thể cũng theo đó hòa điệu nhịp nhàng cùng với bản thể các pháp, thấu suốt tận cùng sự chuyển biến của dòng sanh mệnh tâm thức của chính bản thân và của vạn vật cùng ngàn sao vũ trụ bao la. Xuân lòng thể nhập cùng xuân vũ trụ ấy là hiển lộ tâm xuân, xuân cửa thiền.

Xuân cửa thiền là mùa xuân chứa chan nguồn sống của vạn loại sanh linh. Thế nên, xuân cửa thiền phát triển là xuân muôn thời muôn thuở, xuân miên viễn siêu vượt mùa tiết tháng năm. Xuân cửa thiền là tâm xuân, mùa xuân của nguồn sống tâm linh, mùa xuân được kết tinh bằng năng lực định huệ. Nhị tổ Huệ-Khả đã không quản ngại mưa gió tuyết băng, trải suốt mấy năm trường quỳ hầu cạnh sơ tổ đạt-Ma cũng chỉ cầu được “an tâm” để trọn hưởng mùa xuân lòng. Tâm an thì lý đắc. Thân tâm thanh tịnh thì cảnh giới thênh thang, muôn ngàn hương sắc. Thân tâm thanh tịnh thì gia đình hạnh phúc, thế giới hòa bình, ấy là khi chúng sanh đã đạt xuân cửa thiền, xuân thường tại. Tâm xuân thì cảnh vật xuân, cõi lòng rộng mở. Tâm an thì phát sanh trí huệ, thể hiện tinh thần đại đồng, nơi nơi hoa xuân rộn nở ngát hương giải thoát. Ấy chính là bản thể đặc thù của tâm xuân, mùa xuân vượt ngoài năm tháng. Vì muốn được cảnh giới của tâm xuân mà Huệ-Khả đã phải ròng rã thân để ầu được “an tâm”:

Tâm xuân vũ trụ đều xuân
Tâm buồn thế giới đâu đâu cũng buồn.

Muốn đạt được tâm xuân trước tiên phải đoạn dứt duyên trần, tâm an định trong sạch vọng niệm, bặt hết ý phân biệt. Còn phân biệt là còn hiện tượng sanh diệt, còn trạng thái thịnh suy, còn mầm mống thị phi vui khổ. Nên sơ tổ Đạt-Ma đã khuyên đồ chúng dứt duyên trần để thật sự đạt tâm xuân ngõ hầu thấy bản tánh đạt đạo. Ta hãy nghe Đạt-Ma thiền tổ dạy:

Ngoại tức chư duyên
Nội tâm vô đoan
Tâm như tường bích
Khả dĩ nhập đạo.

Tạm dịch:
Ngoài dứt các duyên
Trong không nghĩ lường
Tâm như tường vách
Mới thể nhập đạo

Tâm đối với ngoại cảnh không dính mắc thì lòng mới thanh thản tự tại. Đối với các hiện tượng thăng trầm vinh nhục của thế sự không bận lòng, trong trạng thái dửng dưng hồn nhiên an định bất động như tường vách là đạt đạo, là tâm xuân. Tâm xuân là tâm không phân biệt, không biên giới không gian, tức là chơn tâm thường tại, tâm vật không hai. Ấy là chơn tâm, tâm xuân muôn thuở, lòng xuân rộng mở bao la, khi đó cảnh giới của tâm hài hòa dung thông nhìn thấy khắp bầu trời nơi nơi hoa cười chim hót, người vật không còn ngăn cách, vạn vật hanh thông không chướng ngại.

Trong cảnh giới chơn tâm không tịch hòa đồng tâm vũ trụ “tâm xuân vũ trụ đều xuân,” Hòa-Thượng Hương-Hải nhắc nhở người đời nên thường hằng tu tập quán chiếu tâm để tâm mình đạt đến cảnh giới “tâm không,” tức là không vướng mắc, không chấp trước, không giao động, không phân biệt, không biên giới giữa mình và cảnh, giữa tâm và vật, mà nên vô tâm để đạt lý đạo, suốt thông lẽ huyền vi, thể nhập vào xuân vũ trụ. Hương-Hải nói:

Tầm ngưu tu phỏng tích
Học đạo quý vô tâm
Tích tại ngưu hoàn tại
Vô tâm đạo dị tầm

Tạm dịch:
Tìm trâu tìm dấu chân trâu
Dấu còn trâu chẳng mất đâu bao giờ
Xin ai học đạo chớ ngờ
Vô tâm thì đạo có cơ dễ tìm

Vậy muốn đạt đạo trước phải quán sát tâm đến chỗ “vô tâm.” Muốn vô tâm thì trước phải an tâm. Vô tâm là không đắm trước duyên trần, chẳng khác nào như trăng sáng không vướng mây, mặt trời không lay động, như nước sông không dậy sóng, ấy là xuân lòng đạt thông cùng vũ trụ. Như cảnh giới tâm thanh tịnh nhập diệu lý kinh cùng lúc ấy thể nhập bản lai vạn vật, toàn cảnh vật ảnh hiện thành cảnh xuân, trời xuân bướm lượn hoa cười, tăng nhân đã bật cười với cõi lòng sáng ngời thanh thoát trong cảnh giới bản lai thường tịch của vạn pháp:

Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng

Tạm dịch:
Các pháp xưa nay vốn tự như
Không sanh không diệt cũng chẳng hư
Xuân đến trăm hoa đều rộn nở
Liễu biếc oanh vàng vui hót cười

Xuân cửa thiền là xuân bình thản an lạc không đến không đi, không trong không ngoài, không còn không mất, không sanh không diệt, không thịnh không suy. Vạn vật xưa nay vẫn tự như, hoa lá vẫn tươi cười, oanh vàng vẫn ca hót khắp mọi thời muôn thuở “đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết.” Đạt đến cảnh giới thường nhiên như thế thì lòng người mới an vui tự tại giải thoát, mới trọn hưởng mùa xuân cửa thiền, mùa xuân miên viễn, tâm cảnh dung thông chơn thường đâu đâu cũng là hương sắc trời xuân.

Khi tâm an thì đạt được xuân vạn vật vũ trụ, không còn bận lòng trước trạng thái đến đi thịnh suy, ấy là lúc xuân lòng ngát hương vượt ngoài xuân trần gian tháng năm mùa tiết. Khi tâm thật an, lòng thật thanh thản, không xao xuyến trước cảnh hợp tan nở tàn đến đi ly biệt, thì lúc ấy tâm người thể nhập vào tâm vũ trụ, và nhìn thấy đâu đâu và lúc nào cũng là hương sắc mùa xuân; hoa xuân nở khắp mọi thời, trời xuân vui đẹp khắp nơi, như tăng nhân đã nói:

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Hôm qua xuân trước một cành mai.
(Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.)

Muốn đạt được xuân cửa thiền thì trước tiên lòng phải rũ sạch trần duyên tham sân chấp ngã, mới trọn hưởng được xuân thiền thường tại miên viễn. Xuân cửa thiền là xuân đạo hạnh, là xuân lòng thanh tịnh thản nhiên như gió mát trăng trong, như lòng xuân Di-Lặc.

Thưa quý vị,

Xuân này đã là mười hai mùa xuân ly hương. Mười hai mùa xuân đất nước dân tộc lắm nỗi tang thương chưa bao giờ có trong lịch sử Việt-Nam, kể từ ngày lập quốc. Chúng ta nên tĩnh tâm suy nghiệm để còn kịp cứu mình giúp người. Có suy nghiệm, có hồi tâm tư duy quán chiếu để nhận rõ diễn biến của tâm thức và cảnh vật, như thế thì kiếp sống của ta bỏ nước ra đi mới có ý nghĩa, và đó cũng là cơ hội cho ta mở rộng lòng vị tha, thanh tịnh hóa thân tâm, để trọn hưởng hương vị xuân cửa thiền thường nhiên thanh thoát miên viễn hòa cùng với mùa xuân thiêng liêng đất trời, nhịp nhàng hòa điệu cùng hồn thiêng sông núi Việt-Nam muôn đời ngời sáng ngát hương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16031)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3721)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6088)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6281)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3981)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8322)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15598)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10829)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7917)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]