Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân nào là mùa xuân của ta

13/05/201312:54(Xem: 9652)
Xuân nào là mùa xuân của ta
Cho Trọn Mùa Xuân


Xuân Nào Là Mùa Xuân Của Ta

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-6Cứ giáp một vòng 365 ngày, tròn đầy 12 tháng, mọi người lại đón mừng xuân. Không ai bảo ai, nhưng ai nấy cũng đều chan chứa niềm cảm thông đặc biệt, mặc nhiên hiểu biết ý nghĩa xuân tết đến là tròn đầy một năm, là sẽ lại thêm một tuổi, là âm thầm nuôi dưỡng trong tâm tư một niềm hy vọng nhiệm mầu ở năm mới với một tương lai sáng sủa của ngày xuân tết.

Con người vốn dĩ đã sống nhiều với hoài bão, sống nhiều với kỷ niệm. Hoài bão, ước mơ một tương lai sáng sủa, ở đó có hạnh phúc tràn trề bền lâu, với một đời sống thoải mái. Nhưng hoài bão ước mơ thì bao giờ cũng vẫn là ước mơ hoài bão, và chẳng mấy khi có được như ý với hoài bão đó đâu? Do đó, nên chán nản với ước mơ, mỏi mòn với hoài bão, con người lại quay về với những kỷ niệm quá khứ. Nghĩa là, ước mơ tương lai không đạt thành như ý, rồi lại xoay về sống với những kỷ niệm quá khứ bằng ký ức bằng hồi tưởng bằng cách mỹ diệu hóa những kỷ niệm đó, để rồi đưa đến trạng thái tâm lý chán nản với hiện tại, hoài vọng tương lai, nhưng tương lai xa vời, rồi quay về tiếc nuối quá khứ. Rõ ràng thực tế thì tương lai chưa đến và quá khứ đã qua rồi! Bản tánh con người thường là chối bỏ thực tại, chán nản hiện tại, nên phóng tâm tìm về quá khứ và hy vọng tương lai! Cứ thế tâm thức con người bất an xoay chuyển luân hồi quanh quẩn lại qua quá khứ tương lai, tương lai quá khứ như thế mãi không thôi!

Nhưng tại sao con người lại tiếc nuối quá khứ hy vọng tương lai? Bởi tâm lý con người thường là bất mãn với hiện tại, dù là hoàn cảnh hiện tại hạnh phúc! Cổ nhân đã từng nói: “Sống trong hạnh phúc mà không biết hạnh phúc.” Thật vậy, có những người đang sống trong hạnh phúc mà không biết nghĩ mình đang hưởng hạnh phúc. Đầu óc cứ nghĩ nọ muốn kia, không biết thắng cương tham vọng, tâm ý lúc nào cũng loạn động, luôn luôn không vừa lòng. Do vậy, kẻ thức thời biết sống bằng lòng an vui với hiện tại, đối với kẻ tham vọng đáng thương hại nầy thường hay nói: “Đứng núi nầy trông núi nọ” là vậy. Người đã không biết mình đang sống trong hạnh phúc thì làm sao giữ hạnh phúc! Giàu sang phú quý tiền của dư thừa chưa phải là hạnh phúc. Vui sống biết đủ mới thật sự hạnh phúc.

Một thiếu nữ khi còn cái tuổi măng tơ, tâm hồn trong sáng ngây thơ được cha mẹ cưng chiều, anh chị chăm sóc. Ngày ngày cắp sách đến trường được thầy thương bạn mến, nhưng không bao giờ thiếu nữ bằng lòng với cảnh sống hạnh phúc hiện tại đó để lo chuyên tâm học hành để ngày kia nên danh nên phận. Trái lại, có lúc thiếu nữ bất mãn với cảnh sống hiện tại rồi quay ra bực bội thầm than trách phận vì cảm thấy mình không được tự do, cảm thấy mình còn nhỏ bé với cha mẹ anh chị em trong gia đình, cảm thấy mình không có quyền định đoạt, cảm thấy mình không hơn hết các bạn, cảm thấy mình bị lép vế với anh chị em, bị lệ thuộc mẹ cha, cảm thấy mình không được thầy tôn trọng thương chiều khi bài vở yếu kém. Có đủ thứ cảm thấy và đủ thứ bất mãn. Thiếu nữ mơ uớc được lớn, được tự do tự chủ, nên xoay tìm bạn trai và quả thực nơi môi trường mới nầy thiếu nữ được sự chiều chuộng tôn trọng nể vì đặc biệt! Tâm hồn thiếu nữ cảm thấy thoải mái lạ lùng! Thiếu nữ hãnh diện thấy mình lớn hơn, có quyền hơn, có người nghe theo phục tùng nên vui hơn, oai hơn, và lúc nào cũng được nam nhi khen tặng săn đón thuận ý chiều lòng như một người quan trọng trong cõi đời nầy! Thiếu nữ nghĩ rằng, thường ngày gặp nhau chỉ trong thời gian ngắn ngủi mà lòng cảm thấy an vui phơi phới như vậy. Nếu được sống gần bên nhau với bạn trai chắc sẽ phải được mãi mãi vô cùng hạnh phúc trăm ngàn lần hơn là sống với gia đình cha mẹ anh chị em. Thế rồi nẩy ý sanh tâm thoát ly.

Từ đấy, nơi lòng thiếu nữa đã nẩy nở nguồn vui hạnh phúc với “người dưng khác họ đem lòng nhớ thương.” Từ nhớ thương đưa đến thái độ dứt khoát xa cha mẹ gia đình để sống gần với người bạn khác họ kia với lòng hy vọng hưởng những ngày cưng chiều hạnh phúc bền lâu. Nhưng thực tế thì hạnh phúc nầy quá ư giả tạo ngắn ngủi như bọt nước cầm tay, để rồi tiếp theo sau đó thiếu nữ mất dần đặc tánh hồn nhiên trong trắng và phải sống trong những ngày ràng buộc bất mãn lo âu, sống trong trạng thái suy thường trực đối phó, và từ từ chìm sâu vào phiền lụy buộc ràng ngày càng xiết chặt hơn! Về lâu thiếu nữ thấm mệt chán nản, bất mãn với cuộc sống mới hiện tại nầy. Những ngày tình tứ chiều chuộng đẹp kia phai dần, liền tiếp theo đó sợi dây vô hình buộc ràng xiết chặt càng thêm xiết chặt, lo âu bất mãn càng thêm bất mãn lo âu! Ngày mới gặp nhau có cảm tưởng đắm say tuy hai mà một, nhưng về lâu chung đụng thân gần thì tuy một mà hai! Bây giờ thiếu nữ ngồi hồi tưởnglại tiếc nuối những ngày trẻ thơ đã qua với bao kỷ niệm êm đềm khi còn sống với mẹ cha anh em thầy bạn. Những kỷ niệm quá khứ đã không bao giờ trở lại! Thiếu nữ không dám thật tâm nhìn thẳng vào cuộc sống thực tại, vì thực tại dồn dập bất mãn phũ phàng, nên chỉ còn biết mơ ước một tươnglai êm đềm sáng sủa hơn! Nhưng tương lai hãy còn xa vời trong mơ tưởng chắc gì có hạnh phúc chân thật?!

Tâm thức con người khổ đau vì bất mãn với thực tại. Nguồn gốc của sự bất mãn khổ đau là mơ mộng không tưởng, tham vọng ích kỷ.

Hạnh phúc vĩnh viễn của con người là khi nào con người biết sống tri túc, biết sống từ tốn khiêm nhường, biết nhìn thẳng vào thực tại và sống với thực tại, biết mình biết người. Người biết tri túc thì dù nằm ngủ dưới đất, ở nhà tranh vách lá, ăn cơm hẩm muối dưa sống đời thanh đạm cũng vẫn cảm thấy hạnh phúc. Người sống biết mình biết người, thì dù là làm đồ đệ, làm người cận vệ, cuộc sống chân lấm tay bùn cũng vẫn hạnh phúc. Phải nhìn thẳng vào thực tại và biết mình là ai, an phận thủ thường thì mới cảm nhận được hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có với người biết sống tri túc thường lạc. Đạt đến tâm cảnh này mới thật là mùa xuân an lạc vĩnh viễn.

Ngược lại, kẻ lòng đầy tham vọng ích kỷ chỉ biết mình mà không biết người, đua đòi theo danh lợi ái tình, bôn ba bắt bóng hạnh phúc thì dù có trăm ngàn mùa xuân đến, muôn vạn chim yến lượn, ngàn phương hoa rộn nở, họ cũng vẫn không thấy được mùa xuân, vẫn cảm thấy cõi lòng họ không được an lành, đời họ vẫn không được thanh thản. Bởi tâm ý đầy đặc tham vọng, nên lúc nào cũng tranh hơn sợ thua, lòng họ lúc nào cũng tham muốn làm cha làm vua thiên hạ. Vì tham vọng, nên cõi lòng cuộn trong đất bùn rác bẩn, tâm trí vô minh không còn phân định thị phi thiện ác, mất hết lương tâm liêm sỉ, tự nghĩ mình phải hơn, nên không bao giờ thỏa mãn hiện tại, tiếc nuối những gì đã mất, sợ sệt lo âu những gì sẽ mất. Vì tâm đắm chìm trong tham danh đạt lợi, nên họ phải ngồi bóp trán tính suy mưu thần chước quỷ để phá hủy, để hãm hại người khác, hầu mong được phần hơn về mình. Những tâm hồn như thế lúc nào cũng cảm thấy mùa đông giá buốt, mùa hè nóng bức, và luôn luôn sống trong hồi hộp lo âu bực tức, uất ức, bất mãn, hận thù. Nghĩa là vĩnh viễn không bao giờ có mùa xuân an lành chân thật với họ.

Với người con Phật phải làm thế nào để có mùa xuân chơn thường an lạc miên viễn?

Mỗi năm vào đêm ba mươi giao thừa, người con Phật cử hành lễ rước vía Di-Lặc, đồng thời cũng là lễ tống cựu nghinh tân. Tống cựu nghinh tân có nghĩa là tống khứ cái cũ, điều thoái hóa, bất hạnh đi, để tiếp đón cái mới, tiến bộ, điều may mắn an vui hạnh phúc đến. Nhưng sự thật trong đời người đã biết bao nhiêu lần tống cựu nghinh tân, đón mừng xuân tết, đã biết bao lần hy vọng mùa xuân mới đến với ước ao được hưởng hòa vui hạnh phúc mà có bao giờ hòa vui hạnh phúc thực sự đến với mình như lòng mong đợi đâu? Thử nhìn kỹ vào chiều sâu thẳm của khổ đau và hạnh phúc, chúng bắt nguồn từ đâu? Phải chăng khổ đau và hạnh phúc đều do chính lòng mình? Như chiếc huy chương có hai bề mặt trái! Phật dạy, tất cả đều do tâm tạo. Không làm nô lệ cho tham dục thì làm gì có sự truy cầu đuổi bắt danh lợi ái ân thất vọng? Mà đã không có truy cầu đuổi bắt theo dục vọng, không ước mong thỏa mãn thì làm gì có khổ đau? Không thấy mình quan trọng giữa cuộc sống xã hội thì làm gì cảm thấy thua thiệt thấp cao? Mà đã không cảm thấy thua thiệt thấp cao thì làm gì có trào dâng nghẹn ngào uất hận, buồn tức khổ sầu bởi tranh giành ganh tị.?

Hình ảnh đức Di-Lặc đã nói lên tinh thần hỷ-xả vị-tha muôn thuở. Hoa xuân hạnh phúc rộn nở cả người Ngài và tỏa khắp cả trần gian. Trong giờ phút linh thiêng trừ tịch tống cựu nghinh tân đón mừng xuân tết, người đệ tử Phật thành kính đối diện trước tượng Ngài cử hành đại lễ giao thừa tống cựu nghinh tân, thử hỏi tận đáy lòng của tâm thức sâu thẳm kia có thật sự chân thành tha thiết lấy tâm từ bi hỷ xả của đức Di-Lặc để bồi dưỡng tâm mình, lấy đức độ bao dung của Ngài làm gương sáng soi lại lòng mình, để hồi quang quán chiếu một năm qua mình đã bao lần lạy Phật, và cho đến ngày giờ trừ tịch giao thừa nầy sẽ nhận thêm một tuổi nữa mà tâm hồn mình đã thực sự có chút nào tiến bộ trong chiều hướng thánh thiện không? Theo dòng thời gian năm tháng, theo lễ tống cựu nghinh tân, nghĩa là bỏ xấu ác để hướng về hào quang lành thiện năm mới, ta đã đích thực quyết tâm tống khứ tham dục ích kỷ nơi lòng, để đón nhận hương hoa xuân tết hỷ xả vị tha từ đức Di-Lặc? Ta đã thật sự tiếp nhận nguồn từ bi hỷ xả bao la nơi Ngài chưa? Nếu chưa tiếp nhận nguồn an lạc trong lành, thì việc cử hành lễ giao thừa rước vía Di-Lặc chỉ là lễ lạy Ngài bằng thân xác áo y, bằgn hương hoa hình thức mà lòng còn đầy ngã-si ngã-kiến ngã-mạn ngã ái, tham sân chấp ngã đầy người, như thế sự lễ bái cũng chỉ là một hình thức tô điểm thêm cho lòng tham vọng tăng trưởng mà thôi, chứ chưa thật sự gột rửa tâm tư thanh tịnh để sống trong hạnh phúc an lành của trời xuân Di-Lặc nơi lòng ta. Nghĩa là ta chưa tỉnh thức, chưa thoát thế lực vô minh của tâm hồn!

Để cho đức hỷ xả Di-Lặc thấm nhuần trong thân tâm, để cho lòng ta rộng mở nở nụ cười hoan hỷ trên đôi môi từ hòa, để cho đời ta được thanh thản giải thoát, ta hãy nhìn vào hình dung đức Di-Lặc, lấy đức tánh Ngài làm gương sáng chiếu tâm, lấy đạo hạnh Ngài làm mực thước hành nghi để gột rửa cõi lòng, điều chỉnh hành vi, ngõ hầu phản tỉnh thanh tịnh nhìn sâu vào đức Phật đương lai Di-Lặc để từ đó tận hưởng mùa xuân tràn đầy hạnh phúc:

Hãy nhìn sâu vào bóng dung Từ phụ
Đôi mắt Ngài cả nguồn biển tình thương
Nụ cười Ngài! Ôi giải thoát không lường
Hồn thanh thoát lạc giữa vườn hoa đạo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16031)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3721)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6088)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6281)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3981)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8321)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15598)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10829)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7917)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]