Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xuân Ly Hương

13/05/201312:46(Xem: 10622)
Xuân Ly Hương
Cho Trọn Mùa Xuân


Xuân Ly Hương

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com


mai-1Xuân lại về. Xuân về khắp vạn vật. Xuân đến trong lòng người. Ngày xưa mỗi lần nghe nói đến xuân tết, nhìn cây cảnh đâm chồi nẩy lộc xanh tươi thì biết đó là hiện tượng của xuân đến. Ngày xưa, mỗi lần xuân đến, tôi cảm nghe nơi lòng tôi, lòng mọi người rộn ràng rạo rực, như hòa điệu với sức sống của vạn vật, đang vương mình nhảy múa tươi cười trong ánh nắng xuân mai. Nhưng thật lạ thay, nay xuân đã về trên quả đất mà lòng tôi vẫn thản nhiên, nhìn xung quanh tôi, cỏ cây hoa lá vàng úa trơ cành, để lộ trạng thái khô khan không mang tính chất nào của xuân tết như những ngày còn sống trên quê hương!

Quê tôi, đêm giao thừa tiếng pháo nổ vang, trước sân mỗi nhà có dựng nêu cao treo đèn lồng tỏa ánh sáng mông lung, thật là linh thiêng huyền ảo vào đêm trừ tịch. Trẻ già trai gái hân hoan trong bộ áo quần mới, miệng nở nụ cười hồn nhiên chúc mừng cho nhau may mắn đầu năm. Đó đây mọi ngả đường, từng đoàn người đi chùa lễ Phật, hái lộc đầu xuân. Lớp lớp người thành kính quì trước Phật đài, dưới làn hương quyện tỏa, hòa với tiếng chuông ngân nga mang lòng thành kính nguyện cầu lan rộng xa khắp mười phương. Bà con ai nấy đều thấy ấm lòng trong niềm hy vọng năm mới may mắn sáng sủa hơn.

Nhưng ở nơi đây, nơi đất khách quê người này, mọi người cũng nói đến ngày xuân, cũng sắm vội sơ sài vài món quà lễ tết. Nhưng khí đất, tiếng người khô khan trong dáng điệu hấp tấp vội vàng, làm cho tôi cảm thấy bàng hoàng nín thở, khiến cho lòng tôi lại càng thiết tha tưởng nhớ đến quê hương lạ lùng! Nỗi lòng thiết tha này tôi chưa từng cảm thấy khi tôi còn sống trên quê hương trong những lần xuân tết đến. Mà giờ đây, nơi quê người đất khách xứ Cali này, tôi ngồi nhìn sông, sông cạn; nhìn núi, núi khô cằn! Tôi nhìn người, đâu đâu cũng biểu lộ vẻ vô tình! Tôi trông ra bốn bề để tìm kỷ niệm hình bóng những mùa xuân năm xưa, tìm mãi khắp khắp xung quanh cảnh vật mà vẫn không thấy một bóng hình kỷ niệm thân thương, vẫn vắng bặt nguồn ấm sưởi lòng của thuở còn ở quê hương đất mẹ! Phải chăng những hình ảnh khô khan vô tình kia đã ngầm gợi lên cái ý nghĩa thương tình cho kẻ xấu số sống tha hương? Kẻ tha hương là kẻ sống nương nhờ nơi đất khách, mà trong mỗi người vẫn chan chứa nơi lòng một quá khứ quê hương thân thương! Ở đó là nơi chôn nhau cắt rún với bao kỷ niệm mà giờ đây thân còn sống gửi quê người, ngày về nơi đất mẹ vẫn còn xa vời vô định.

Tuy đang sống giữa chốn phồn hoa đô hội ở cái xứ văn minh vật chất nhất của nhân loại này, nhưng lúc nào tôi cũng cảm thấy cô lạnh lẻ loi như đàn chim bắc cực lạc loài đang bay tìm tổ ấm mùa đông.

Xuân đã mấy lần về trên đất khách rồi. Vậy thì người Việt tỵ nạn tha hương bao giờ mới được trở lại đất mẹ để an cư lạc nghiệp? Ngưỡng mặt nhìn khoảng trời cao lồng lộng, tôi đã xin hỏi những Đấng cao thâm không biết mấy lần rồi mà sao các đấng ấy vẫn âm thầm lặng thinh! Quỳ gối hỏi Thượng-đế, Thượng-đế vẫn vô tình không một lời giải đáp! Người ta bảo Thượng-đế là đấng thần linh toàn năng sanh ra vạn loại và an bài trần gian. Vậy thì dân tộc Việt-Nam có tội tình gì mà suốt đời vẫn phải bị khốn đốn tang thương? Hết bị Tàu thống trị thì đến bị Tây đô hộ. Hết bị Nhật đổ bộ áp đảo thì đến Hồ-Chí-Minh gây tang tóc. Hết độc tài Ngô-Đình-Diệm, lại đến quân phiệt Nguyễn-Văn-Thiệu cứ liên tục múa rối như thế để rồi ngày nay lại bị Hồ-Chí-Minh và đồ đảng sùng bái chủ thuyết phi nhân cam tâm tình nguyện làm vong nô cho chủ nghĩa cộng sản vô thần gian ác tàn hại dân tộc Việt-Nam. Sao cứ thế dày xéo quê hương dân tộc tôi tan nát, đất nước phải chia đôi, nồi da xáo thịt lẫn nhau hằng chục năm tạo nên cảnh cốt nhục tương tàn, quê hương triền miên bom đạn, dân lành chết chóc đói nghèo. Và cho mãi đến giờ phút này, dân tộc tôi vẫn còn chìm đắm trong đêm thâu mịt mù của khói lửa chiến chinh, mặc tình cho loài thú dữ vô thần quỷ đỏ tung hoành cấu xé làm tan nát văn hóa đạo đức ngàn xưa. Thời xưa Việt gian Pháp thuộc thì thờ Tây. Ngày nay độc lập tự do hạnh phúc bằng chủ nghĩa cộng sản thì thờ Lê-Nin. Mao-Trạch-Đông tôn sùng cao hơn cả ông cha và đưa dân đi các nước gọi là anh em làm nô lệ để trà nợ! Điều tủi nhục khổ đau có một không hai trong lịch sử dân tộc Việt-Nam! Nòi giống rồng tiên sao lại bị oan khiên nghiệp chướng gì lạ lùng như thế?!

Hỡi những đấng thần linh thượng đế, xin cho một lời giải đáp sáng tỏ về dân tộc và quê hương tôi, rằng đã làm nên những tội tình gì mà đến nỗi liên miên từ thế hệ này đến thế hệ khác phải chịu cực hình thống khổ đến giờ nầy vẫn chưa thôi? Nếu dân tộc tôi thật có tội, thì tội gì, sao không cho biết để được đoái công chuộc tội? Để cho thế hệ con cháu chúng tôi được yên thân, quốc gia chúng tôi có được những ngày thái bình, không còn cảnh sanh ly tử biệt: để dân tộc tôi còn thể diện sống dưới ánh sáng mặt trời giữa cộng đồng nhân loại văn minh? Nếu bảo rằng vì không tu theo Thượng-đế nên bị phạt, thì có các dân tộc đã nghe sùng tín bái phục theo Thượng-đế mà cũng vẫn bị ngặt nghèo chiến tranh thảm khống hằng thế kỷ đó, thì sao? Thượng đế ở đâu? Ngài có thật không, hay chỉ do tưởng tượng? Nếu có thật sao nỡ làm ngơ trước cảnh đau thương của con cháu do chính Ngài tạo ra? Toàn năng toàn trí toàn đức của Thượng đế để đâu, sao không đem ra an bài cho thế giới nhân loại hòa bình, cho người thương người, để tránh cho con cháu Ngài giết hại nhau, cho dân tộc Việt-Nam được thảnh thơi đôi chút? Ngài tạo ra nhân loại làm gì để chém giết nhau mà Ngài vẫn làm thinh, hỡi Thượng-đế?

Nhớ thời lập quốc, đất nước tôi còn nhỏ bé, dân tôi còn thưa thớt, thế mà tổ tiên tôi đã giữ được độc lập tự chủ “Nam-Quốc Sơn-Hà Nam Đế-Cư-Nước Việt-Nam do vua Việt-Nam ngự trị.” Độc lập vững bền đến gần 400 năm, hiên ngang phát triển bên cạnh một đế quốc Trung-Hoa to lớn gấp trăm lần hơn, lúc nào cũng có dã tâm hầm hừ muốn ăn tươi nuốt sống lãnh thổ Việt-Nam chúng tôi. Nhưng rồi họ đã phải nể vì. Ông cha chúng tôi dựng nước và giữ nước, chẳng những độc lập về dân tộc chủ quyền, mà cả đến nền văn hóa học thuật tư tưởng ở thời Lê, Lý, Trần có lúc đã sánh bằng với những thời đại văn hóa sáng chói nhất của Trung-Hoa ở vào những thời Đường, Tống. Việt-Nam ở vào thời đại Lê, Lý, Trần, dân tôi thái bình thịnh vượng, văn hóa, đạo đức, học thuật, tư tưởng, kinh tế, cực thịnh và không ngừng mở mang bờ cõi. Đó là những thời thoải mái huy hoàng nhất của dân tộc Việt-Nam, cũng là thời đại được ánh sáng Phật giáo soi sáng dẫn đạo quốc gia dân tộc hướng lên độc lập vinh quang.

Nhờ đâu mà thời Lê, Lý, Trần lại được như vậy? Và nhờ đâu mà thời đại đó lại có nhiều bực anh hùng dũng lược đủ đức Bi, Trí, Dũng siêu quần bạt tụy như Đinh-Bộ-Lĩnh, Lê-Đại-Hành, Lý-Công-Uẩn, Lý-Thường-Kiệt, Trần-Hưng-Đạo, Trần-Quốc-Toản v.v. đã Bắc phạt Tống, Nam bình Chiêm, đua dân tộc và đất nước đến chỗ vinh quang vô tiền khoáng hậu như thế? Điều này không có gì khó hiểu cả. Bởi các vua lúc bấy giờ phần nhiều do các bậc thiền đức chốn thiền môn dạy dỗ hướng dẫn bằng giáo lý của đạo Phật là vô ngã vị tha, bình đẳng từ bi hỷ xả. Tinh thần của đạo Phật là phụng sự chúng sanh tức là cúng dường chư Phật. Do các vua thấm nhần tư tưởng nhân bản đạo đức, dùng đức trị quốc an dân, nên làm cho đất nước độc lập thạnh trị, dân tộc an cư lạc nghiệp.

Ngoài ra, các vua còn thỉnh mời các thiền đức cao tăng làm cố vấn cho nhà vua trong việc trị nước an dân và giúp đỡ triều đình đảm nhiệm việc giáo dục quốc dân. Thiền tăng vốn là những người uyên bác Nho học và Phật học với cõi lòng buông xả không dính mắc quyền danh lợi dưỡng tình trường. Các ngài đem tinh thần từ bi vị tha tế thế thương nước thương dân, phục vụ. Lấy tư tưởng vị tha, vô ngã, vô úy, hỷ xả, thành tín, ái quốc, yêu dân không danh không lợi làm giáo khoa giảng dạy, gieo sâu tinh thần từ bi vị tha vào tâm trí học trò. Sách vở và lời dạy của các bậc thầy thời đó mang tính chất tinh thuần nhân bản, hướng con người đến nhân cách quân tử xả kỷ vị tha, tình thương đùm bọc, trong niềm tin từ bi nhân nghĩa và trí huệ vô ngã, để xây dựng cho nhau một cuộc đời an lạc. Tinh thần đó được thể hiện như sách Đại-Việt Sử-Ký Toàn-Thư có ghi: “Một hôm trời đông giá rét, vua Lý-Thánh-Tông ngự triều. Động-Thiên công chúa hầu bên cạnh. Đang giữa bá quan văn võ đại thần, nhà vua xoay lại nói với công-chúa rằng : Ta ở trong cung điện mặc áo lông cừu mà còn lạnh như thế này. Những tội nhân trong ngục thiếu áo cơm chắc là đói lạnh lắm. Trẫm nghĩ mà thương cho họ lỡ ngu dại làm điều phạm pháp phải chịu ngục hình. Vậy con nên đem chăn chiếu và thức ăn cho họ. Rồi ngài xoay lại phán với các đại thần rằng: “Trẫm thiết nghĩ các khanh nên xem xét lại những người tội trạng nhẹ thì nên tha để cho họ được về đoàn tụ với gia đình.” Nhờ có tinh thần đức độ, vị tha của nhà lãnh đạo quốc gia tỏa ra sáng ngời, và nhờ trí tuệ vô vị lợi, nên thế hệ thanh niên thời đó được giáo dục, hướng dẫn và được thấm nhuần trong tinh thần bi, trí, dũng. Thế hệ trẻ của thời đó được huấn đào nung đúc trong tinh thần hào khí đạo đức, xả kỷ vị tha, nhờ đó mà tạo thành thế hệ có tư tưởng độc lập tự chủ của dân tộc. Nên tất cả tinh thần năng lực và tư tưởng của người dân Việt thời đó đều hướng về phục vụ cho dân tộc xứ sở chớ không vong bản vọng ngoại. Nhờ vậy đất nước Việt-Nam có được thời đại anh hùng dân tộc sáng giá, giữ được độc lập tự chủ, hào quang độc lập tự chủ của các thời Lê, Lý, Trần rạng ngời mãi đến nay.

Ông cha chúng ta sanh ra và sống trong hoàn cảnh khó khăn gấp trăm lần chúng ta. Thế mà các ngài biết dựa vào tiềm năng nhân bản và niềm tin đạo đức truyền thống của dân tộc để phục vụ quê hương xứ sở. Còn ngày nay bậc đàn anh của chúng ta được ngoại quốc giúp đỡ, được gửi đi học Tây học Mỹ, mà không biết đem khả năng học vấn để khai thác tiềm năng sẵn có của dân tộc để phục vụ đại nghĩa dân tộc quê hương. Ngược lại đem tư kiến hạn hẹp địa phương kết bè lập đảng nghe lời xúi xử ngoại bang tranh giành quyền lợi tư kỷ, làm tan hoang tinh thần đoàn kết của dân tộc! Độc hại hơn nữa, cuồng tín theo ngoại giáo, dựa thế lực ngoại bang phục vụ cho văn hóa tư tưởng vong nô gây nên tang thương chia rẽ dân tộc. Thậm chí còn làm bồi bút vu khống mạ lỵ những người có tâm huyết nhiệt tình đem hết mình phụng sự đại nghĩa văn hóa đạo đức truyền thống của dân tộc và quê hương. Việc làm của họ đều theo ngoại bang xúi xử! Rõ ràng gần đây nhất như Hồ-Chí-Minh và đổ đảng, Ngô-Đình-Diệm và đám cuồng tín đã gây ung thối cho cả xã hội và tầng lớp tuổi trẻ, đầu độc mầm non của dân tộc. Hậu quả tai hại không lường, để rồi đưa đất nước và dân tộc đến đường cùng rách nát tang thương nghi kỵ chia rẽ như ngày hôm nay!

Khổ thay cho đến giờ này, bỏ nước ra đi, đem thân sống nhờ đất khách quê người mà vẫn còn chưa kịp thời tỉnh ngộ, để tự xót thương cho thân phận chính mình, và cảm thông dân tộc giống nòi để đùm bọc lấy nhau, để cùng nỗ lực vươn lên trong cộng đồng nhân loại. Trái lại, vẫn thói nào tật nấy, ngoan cố tự hào ta đây trí thức anh hùng, kết bè lập nhóm dùng nghề bồi bút to mồm để phục vụ tư tưởng vong bản phi nhân, bằng dùng hết tán tận lương tâm đạo đức và tình người, đến độ phun ra những văn từ luận điệu của tâm địa ác thú độc trùng truyền nhiễm, làm cho tuổi trẻ nghi ngờ, quần chúng hoang mang, niềm tin phá sản, chia rẽ ly tán đến cùng cực. Vì đâu? Vì vong bản, cuồng tín ngoại lai mà gây nên tai hại cho cả dân tộc.

Chẳng những đã không đoàn kết mà còn phá hoại khiến cho quần chúng hoang mang, tuổi trẻ chẳng màng đến kỷ cương lễ giáo, không biết nên tin vào đâu nữa! Cộng sản hay tay sai cộng sản phá rối thì đâu chưa thấy hiện nguyên hình, mà đồng cảnh tỵ nạn với nhau cứ đánh phá liên tục! Quốc nội cộng sản gài người trong khắp các sinh hoạt dân chúng đã đành. Còn như quốc ngoại đồng cảnh chạy loạn tỵ nạn cộng sản, ấy thế mà có lắm kẻ lợi dụng cây bút, tiền bạc và chút uy tín cặn bã để chụp mũ vu khống lừa gạt người này, hạ nhục kẻ nọ, xuyên tạc đoàn thể kia làm cho thế hệ tuổi trẻ tha hương và cộng đồng người Việt lương thiện đã phải chán nản, giảm sút niềm tin, tăng thêm nghi ngờ, thì chính những kẻ cầm bút bất chánh đó, nếu không là cộng sản thì ít nhất vô tình tiếp tay cho cộng sản. Họ quả thật đắc tội với dân tộc cũng bằng như cộng sản. Cho nên lớp trẻ chúng ta phải hết sức cẩn trọng và tránh xa họ, như tránh xa độc trùng ác thú hay những con bịnh trầm kha truyền nhiễm. Dù là hạng nào, ở lãnh vực nào, hễ ác ý tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ, đặt quyền lợi họ trên quyền lợi chung của đại chúng, thì chính đó là độc trùng ác thú, ta nên tránh xa. Như thế chúng ta mới mong xây dựng thế hệ thanh niên vững niềm tin, yêu đạo, yêu đời, yêu quê hương dân tộc trong truyền thống đạo đức ngàn đời của tổ tiên. Chúng ta phải sáng suốt nhận định và mạnh dạn có thái độ dứt khoát như thế, thì mới thật sự hy vọng ngày quang phục quê hương xứ sở, và cứu vãn dân tộc thoát khỏi cảnh lầm than.

Xuân về với đất trời. Khí xuân rạt rào khắp nơi nơi hòa cùng vũ trụ. Hồn xuân phảng phất với vạn vật và lòng người. Hy vọng còn được chút hồn xuân thuần túy quê hương, tinh thần xuân yêu thương dân tộc còn vương vấn đâu đâu thấm vào lòng người con Việt tha hương. Chúng ta lớp người trẻ và lớp người đứng tuổi, đặc biệt tuổi thanh xuân đầy nhiệt tình và hy vọng, phải kịp thời thức tỉnh, phải mau trở về nguồn đạo và văn hóa truyền thống của ông cha, để khỏi lạc lõng giữa dòng đời vật chất khô cạn tình thương, thiếu vắng hương vị quê hương dân tộc. Những ai còn thương yêu đất nước giống nòi, còn muốn ngước mặt hướng về những bậc tiền nhân anh hùng dân tộc, còn muốn sống với truyền thống đạo đức tư tưởng văn hóa của ông cha, thì nên trở về với ánh đạo thiêng liêng:

Ánh đạo thiêng liêng quá nhiệm màu
Người dân nước Việt đã ghi sâu
Nếu ai quên hết đường quê cũ
Lúc muốn quay về biết hướng đâu

Về đây với đoàn tăng ni sinh của Phật-Học-Viện Quốc-Tế, với người Phật-tử trong tình tự dân tộc, chúng ta sẽ tìm thấy nguồn mát an lành từ âm hưởng đạo đức truyền thống của ông cha chúng ta để lại. Có họp đoàn trong niềm tin truyền thống dân tộc, trong lòng đạo từ bi hỷ xả, trong tiếng đồng ca mẹ Việt-Nam yêu dấu ngàn đời, chúng ta mới thấy được hào quang tự chủ độc lập thái bình rạng chiếu của thời Lê, Lý, Trần, mới hòa điệu cùng nhịp sống tâm thức của dân tộc, với hồn thiêng đất nước, với những bậc anh hùng Thường-Kiệt, Công-Uẩn, Hưng-Đạo, Quốc-Toản, Nguyễn-Trãi, Lê-Lợi, Quang-Trung tiếp nối nguồn tâm thức sống động rạt rào tình yêu tổ quốc, một cách hòa điệu chân thành.

Có cảm thông trong tình người, có sống trong tình tự dân tộc, có cảm nhận tư tưỏng truyền thống văn hóa dân tộc bị phá sản thì mới nhận ra tình quê hương tổ quốc bị bóp nghẹt chết dần trong cảnh huống sanh ly tử biệt dưới chế độ cộng sản khắc nghiệt vô thần và bị hư hại bởi kẻ vọng ngoại cuồng thần và bị hư hại bởi kẻ vọng ngoại cuồng tín gây nên. Lúc đó, chúng ta mới thật sự thao thức cho tiền đồ quê hương dân tộc. Nếu ai nấy cũng đều trở về với niềm tin từ truyền thống dân tộc, tức là cùng nhau trở về nguồn, thì chúng ta sẽ tránh được lỗi lầm gây tang tóc cho thế hệ tương lai, không đi sai con đường của tiền nhân đã khai sáng và như thế mới tiếp nối chí nguyện rạng ngời của các bậc tiền bối hữu công với dân tộc xứ sở. Cũng từ nhận thức đó, bằng niềm tin truyền thống, chúng ta sẽ không bao giờ sống với ý thức vong bản đem thân làm kiếp vong nô cho bất cứ chủ thuyết phi nhân vô đạo nào hay thứ cuồng tín nào để phải bị chìm trong hận thù chia rẽ như hiện nay. Chúng ta phải ý thức như vậy và nên tự hiến mình làm nhịp cầu thông cảm, là nơi tri ngộ tâm thức Việt, là nơi làm sống lại tư tưởng truyền thống Việt-Nam trên bước đường ly hương viễn xứ. Chúng ta nên chọn lối sống không dính mắc ân tình thân sơ, không biên bờ phe phái, mà sự hiện hữu của ta là vì và cho tất cả đại nghĩa đạo pháp và dân tộc.

Hỡi anh em ở cái tuổi măng tơ! Hỡi những người còn mang dòng máu Ngô-Quyền, Thường-Kiệt, Hưng-Đạo, Quốc-Toản, Lê-Lợi, Quang-Trung, hãy trở về nguồn đạo từ bi giác ngộ, sống trong tinh thần vị tha giúp đời để chung nhau bồi đắp niềm tin dân tộc, để xây dựng lại quê hương xứ sở trong chiều hướng nhân bản an lạc, nước mạnh dân hùng, giữ gìn đạo truyền thống của con rồng cháu tiên. Về đây, chúng ta hợp đoàn sống trong ánh đạo vàng thiêng liêng. Ánh đạo vàng đã từ hai ngàn năm trước cùng với tổ tiên dựng nước, giữ nước và mở mang bờ cõi hướng đạo quê hương giống nòi đến ngày nay. Chúng ta phải tự hào vui trong nguồn văn hóa tư tưởng truyền thống đó. Nguồn văn hóa chan hòa cùng nguồn đạo từ bi đã tạo thành truyền thống cho lẽ sống đã thấm sâu vào xương tủy máu tim thịt da hơi thở của dân tộc Việt. Đạo thiền đã từng hướng đạo và nuôi dưỡng sinh khí hùng tráng dân tộc trong khí thế dựng nước và giữ nước, nhào nặn thành nền văn hóa Việt huy hoàng ngàn đời.

Xuân hy vọng, xuân họp đoàn, xuân quê hương truyền thống, xuân chiến thắng sẽ sống mãi trong lòng mọi người Việt chúng ta. Xuân đến mở rộng chân trời hy vọng. Ấy là xuân hy vọng trở về quê hương trong ánh sáng huy hoàng. Ngày về nguồn, về đất mẹ vẫn còn nhiều đường sáng mát bình minh. Quê hương dân tộc đang chờ đón ta trong ánh xuân dương thanh bình với niềm tin truyền thống bất khuất.

Mùa xuân ngoại cảnh, ta tràn đầy hy vọng trở lại quê hương trong ánh xuân dương mát lành, trong tiếng chim ca hót trên cành ngày xuân, thì lúc đó chủ nghĩa phi nhân ngoại lai tan biến như mây khói. Mùa xuân nội tâm, ta hồi quang quán chiếu nội tại để đánh bại phiền não vô minh, để cho Phật tánh hiển lộ, để cho tình người dạt dào mà mấy độ xuân rồi ta vẫn chưa thành công chiến thắng. “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình.” Chiến thắng mình khi ánh quang minh tâm thức hiển lộ, vô minh dục vọng tan tành, ấy là hoàn thành xây dựng mùa xuân bản thể rạng ngời, không còn sống đời xuân ly hương, đồng thời tuyệt dứt xuân ly hương tâm thức, chấm dứt xuân ly hương tự thân.

Sự đời nào có rắc rối, tại lòng ta nhiều mối đa đoan mà phải than thở phiền lụy đó thôi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 16031)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 3721)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6088)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6281)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 3981)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8322)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 5602)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 15598)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
26/06/2021(Xem: 10829)
LỜI NÓI ĐẦU Tác phẩm “Thế giới Cực Lạc” là tuyển tập các bài giảng của thầy Nhật Từ về nội dung của kinh A-di-đà. Với cách diễn tả và phân tích đơn giản và đi thẳng vào mọi vấn đề, thầy Nhật Từ đã giới thiệu về bản chất Tịnh độ Tây phương gắn liền với xã hội con người. Để có được kết quả vãng sanh Tây phương, mỗi hành giả cần hội đủ năm điều kiện tiên quyết.
25/06/2021(Xem: 7917)
Lời Nói Đầu Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Kính bạch chư Tôn Đức Tăng Ni, Kính thưa quý Phật tử, Trong thời gian cả thế giới đang bị dịch Covid-19, Sa di Thông Đạo đã dày công nghiên cứu Ngũ Bách Danh - Quán Thế Âm Bồ Tát. Đến nay đã hoàn thành bằng ba ngôn ngữ khác nhau: chữ Việt Nam, chữ Anh, chữ Hán. Bất cứ nơi nào có đạo Phật, chắc chắn có tu sĩ, có Phật tử sinh hoạt chung với nhau. Theo truyền thống Bắc tông, hằng năm các chùa đều tổ chức lễ tưởng niệm Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần vào những ngày 19 tháng Hai, 19 tháng Sáu, và 19 tháng Chín Âm lịch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]