Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thay Lời Tựa

13/05/201312:32(Xem: 10008)
Thay Lời Tựa
Cho Trọn Mùa Xuân


Thay Lời Tựa

HT. Thích Đức Niệm
Nguồn: www.quangduc.com

Thời gian cứ mãi trôi. Vạn vật tiếp nối đổi dời thay hình biến sắc chẳng dừng. Bởi tâm người bất định, nên hình thành cảnh vật không thường. Chúng sanh tâm vô thường, nên hình thành cảnh vật bất an. Khác với tâm chúng sanh, tâm những người giác ngộ thì an định, nên tạo thành cảnh vật thường lạc. Vọng tưởng là trạng thái tâm thức si mê, tham vọng, phiền não đảo điên. Bất loạn là thể hiện tâm trí giác ngộ, thường nhiên an lạc. Kinh Bát-Nhã nói: “Ngài Quán-Tự-Tại Bồ-Tát do tâm thức an định, trí huệ rộng sâu, mà vượt thoát tất cả phiền não điên đảo vọng tưởng, đạt đến cứu cánh an lạc Niết-Bàn”.

Người trần thế do vọng tình huân tập, tâm thức đang trong giấc ngủ say mê, khóc cười trong đại mộng trần thế. Kẻ hành đạo theo gót chân Phật sống trong trạng thái nửa ngủ nửa thức, nửa tỉnh nửa mê, biết giữ chặt giới định huệ để bảo vệ giới thân huệ mạng không bị ngũ dục thế gian va gió đời cảm nhiễm xâm nhập. Phật, Bồ-Tát là những người thường sống trong trạng thái tỉnh thức, an định giác ngộ, vượt ngoài đại mộng vọng tưởng phàm tâm, nên các Ngài sống tự tại giải thoát, thường chèo thuyền Bát-Nhã đi lại trong biển đời vô minh vọng thức, đánh trống chánh pháp, reo chuông giác ngộ, cảnh tỉnh người đời, đồng thời thả phao giải thoát cưú người trầm luân đang đắm chìm trong biển đời mộng huyễn phiền luỵ khổ đau.

Xưa nay lịch sử nhân loại cho ta thấy “nhất tướng danh thành vạn cốt khô”. Danh vọng được xây bằng tâm thức vô minh tham vọng là thứ danh vọng ô uế mộng huyễn. Tuy vẫn biết mộng huyễn, vẫn biết não phiền chồng chất mà con người vẫn miên man say đắm, không chịu tỉnh thức để chấm dứt cuộc sống đại mộng! Chẳng khác nào các bà mẹ đã khổ đau vì chồng vì con mà vẫn cứ muốn con cái tiếp tục theo con đường tình ái buộc ràng phiền khổ của mình! Do tâm thức chúng sanh mê vọng vô thường, nên tiếng cười mừng vui danh lợi chưa trọn thì đã tiếp theo tiếng than nước mắt thất vọng. Nụ cười của người trần thế quả thật ngắn ngủi mong manh, mà tiếng khóc đã vây quanh suốt đời! Điều đó rõ như ban ngày và dẫy đầy cõi trần thế, như bọt bóng trong lòng bàn tay. Thế mà người không chịu để ít phút giây nhìn kỹ suy tư, lại cứ suốt ngày đem tâm dong ruổi chạy đông rượt tây để rồi:

Vẫy vùng rồi cũng ba gang đất,
Một nắm rêu phong phủ nhạt màu!

Có sự an lạc nào bằng sự an lạc của tâm hồn thanh tịnh tỉnh thức. Có sự đầy đủ nào bằng sự đầy đủ của người biết sống tri túc buông xả. Có sự giàu sang phú quý nào bằng sự giàu sang phú quý của người có tâm từ bi vị tha bố thí. Người đời lúc nào cũng cảm thấy mình nghèo thiếu, vì không biết sống tri túc, buông xả, vị tha, bố thí. Đời người vô thường chẳng được bấy lâu, mà sao con người không chịu ngừng nghỉ tham tâm chụp bắt bóng danh lợi, để hưởng thanh nhàn giàu sang hạnh phúc? Một khi lòng thanh tịnh tỉnh thức biết trau giồi đức hạnh là lúc trời xuân tràn ngập tâm hồn. Chỉ có hạnh phúc của tâm hồn thanh tịnh tỉnh thức, biết sống với đức tánh hỷ xả vị tha, thì mới thật sự trọn hưởng giàu sang hạnh phúc muôn đời, mới thật sự thưởng thức trời xuân chơn thường an lạc.

Trong ý nghĩa đó, bút giả ghi lại dòng tâm thức của mình chảy dài với thời gian và trải rộng với hoàn cảnh. Bởi xúc cảnh sanh tình, mùa tiết đến đi, cảnh ngộ trùng phùng, nên văn ý có lúc trùng điệp. Nhưng dù sao đó cũng là tâm ảnh cảnh huống của bút giả trải qua.

Trời xuân tràn ngập nơi lòng và thể hiện trên môi người thanh tịnh tỉnh thức biết sống đời hỷ xả vị tha. Nào! Chúng ta hãy tĩnh tâm lần dở trang sách để cảm nhận trời xuân, xuân đời, xuân đạo, xuân người giác ngộ và xuân kẻ mê tình.


Hoa-Kỳ, Xuân Bính-Tý 1996
Thích-Đức-Niệm
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/12/2010(Xem: 6556)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
04/12/2010(Xem: 6411)
Nói đến chữ tu, có người lầm tưởng rằng phải bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ vợ con để tìm nơi non cao thanh vắng, hoặc ở chùa, ở am mới gọi là tu. Không phải như thế đâu, tu có nghĩa là sửa đổi, trau dồi. Sửa là sửa hư, sửa sai, sửa lạc lầm, sửa xấu thành tốt, sửa dữ thành hiền, tà vạy thành ngay thẳng, tối tăm thành sáng suốt, si mê thành giác ngộ, phàm phu thành thánh hiền, chúng sanh thành Phật, sanh-tử thành Niết-Bàn.
03/12/2010(Xem: 5568)
Một đệ tử đang ở trong tù viết thư cho Rinpoche khẩn cầu ngài ban những thực hành cho quãng đời còn lại của anh. Rinpoche đã trả lời như sau. Bài do Michelle Bernard biên tập.
03/12/2010(Xem: 17991)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
30/11/2010(Xem: 11690)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâm và trí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
28/11/2010(Xem: 8118)
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
27/11/2010(Xem: 11580)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
25/11/2010(Xem: 26757)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Đây là 43 công án Vua đưa ra để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia. Thầy Làng Mai đã dịch những công án này ra tiếng Việt và tiếng Pháp năm 1968. Bản dịch tiếng Pháp xin xem ở phần phụ lục cuốn Clé Pour Le Zen, tác giả Nhất Hạnh, do nhà xuất bản JC Lattes ấn hành. Bản Hán Việt có trong Thơ Văn Lý Trần quyển II (Quyển thượng, trang 108-121), NXB Khoa Học Xã Hội.
25/11/2010(Xem: 12926)
Cuộc sống xô bồ và dồn dập trong các xã hội phương Tây không cho phép một số người có thì giờ đọc toàn bộ những quyển sách liên quan đến các vấn đề khúc mắc của tâm linh. Vì thế nhiều tác giả chọn lọc các lời thuyết giảng, các câuphát biểu ngắn gọn hoặc các đoản văn ý nghĩa nhất để gom lại thành sách giúp người đọc dễ theo dõi và tìm hiểu, vì họ muốn đọc hay muốn dừng lại ở đoạn nàocũng được. Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có phát hành một quyển sáchtheo thể loại trên đây. Sách gồm những lời phát biểu của Đức Đạt-lai Lạt-ma vềPhật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo chọn lọc từ các bài diễn văn,phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức Đạt-Lai Lạt-ma.
23/11/2010(Xem: 7083)
Chiếc y của người xuất gia Phật giáo biểu trưng cho sự thanh bần, giản đơn, và quan trong hơn cả là nó nối kết người mặc với vị thầy bổn sư của mình - Đức Phật...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]