Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần thứ III: Các bài sám văn - báo hiếu - cầu an

10/05/201318:01(Xem: 16404)
Phần thứ III: Các bài sám văn - báo hiếu - cầu an

Tuyển tập các bài sám văn - Tập IV: 55 Bài sám văn chọn lọc

Phần thứ III: Các bài sám văn - báo hiếu - cầu an

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

194. SÁM HIẾU TỪ
(Sám báo hiếu 11)


Nước sông nọ có nguồn mới chảy.
Hạt thóc kia có cấy mới lên
Phàm phu cho đến Thánh Hiền
Nếu không cha mẹ sao nên thân người
Trong mười tháng mặt xanh da bủng
Vì nuôi con bụng ỏng lưng eo
Ba năm bú mớm nâng niu
Cam sài mẹ chịu hẩm hiu mẹ buồn
Hai bầu sữa nước nguồn khôn ví
Dạ nuôi con sá kể nhọc nhằn.
Ðêm đông ấp nệm ủ chăn
Chiếu giường ẩm ướt dành thân mẹ nằm
Năm canh những âm thầm với bóng
Mong cho con chóng lớn nên người
Tháng hè như nấu như sôi
Tay xoa tay quạt mồ hôi đầm đìa.
Hàm răng cũng thường khi biếng xỉa.
Ðài gương soi cũng để bụi mờ
Xuân xanh mấy chốc đã già.
Trời cao bể rộng khôn mà ví ơn.
Còn cha phải tìm cơm lo cháo
Vì con lo quần áo đơn mền.
Một ngày dần một lớn lên
Ðón Thầy tìm bạn bút nghiên học hành
Dạy ăn nói cho thành khuôn phép
Ðạo làm người dạy biết nông sâu
Lại cho dựng vợ gả chồng
Gây cơ lập nghiệp nối dòng mai sau
Công đức nặng trên tày non Thái
Ðạo làm con ta phải biết ngần
Sớm khuya phụng dưỡng chuyên cần
Ðem lòng phụng Phật sự Tăng mới là
Khi ăn ở vào ra hầu hạ
Dung nhan thường hòa nhã vui tươi
Không may trái nắng trở trời
Tìm thầy tìm thuốc đêm ngày dưỡng nuôi
Mùa nóng nực không ngơi tay quạt
Tiết ngày đông sắp đặt màn chăn
Vì cha mẹ quý hơn thân
Nhẹ bên tình ái, nặngï phần cù lao
Gương hiếu hạnh kể sao cho xiết
Muôn điều lành kể liệt đầu tiên
Kìa như Nghiêu Thuấn vua hiền
Bởi tùy thuận ý chẳng phiền lòng cha
Ông Mạnh Tử sương sa rét mướt
Mảnh áo lau cảm được lòng từ
Gương con nuôi mẹ chuyện xưa
Kìa ông Quách Tử trời cho lọ vàng.
Chẳng qua đấng anh hùng hào kiệt
Hiếu có tròn sự nghiệp mới cao,
Muốn người thoát khỏi trần lao
Công ơn cốt dục nỡ nào làm quên
Vứt bỏ tấm thân nên chẳng đoái
Quyết mọi điều ân ái bước ra
Sắc trần chẳng chút nhuộm qua
Giàu sang trò ảo, vinh hoa chuyện đời
Chí Lục độ bằng mười rắn rỏi
Chữ Từ ân thúc gọi bên tai
Vì mình thoát khỏi trần ai
Mẹ cha hẳn được lên đài tiêu dao
Ðấng Ðại giác kề bao nhiêu kiếp
Vì sinh thành chịu chết cũng cam
Mục Liên dốc một hiếu tâm
Thần thông đắc đạo ơn thâm trả đêàn.
Mẹ ngục tối trở lên Tịnh độ
Con như ngài tiến bộ mới cao
Ba la mật thác sinh vào
Là ngài Ðịa Tạng má đào lạ thay
Gậy tích trượng ra tay cứu mẫu
Ngọc minh châu soi thấu cõi đời
Kiếp sau lại trở làm người
Với tên Quang Mục đứng ngồi nghiêm trang
Thích trứng cá mẹ mang tội báo
Vào ngục ngài hóa đạo sinh thiên
Hiếu như thế mới nên đại hiếu
Tu như ngài mới hiểu đường tu
Dẫu như thế tục khư khư
Ngọt bùi ấm lạnh chăm lo thân thờ.
Một ngày yên giấc ngàn thu
Hồn mê ngơ ngẩn bây giờ nương đâu ?
Hiếu thế tục, chỉ trầu cơm nước
Hiếu Phật đà giải thoát luân hồi
Dám khuyên khắp cả mọi người
Báo ơn khá tỏ chớ sai lầm đường
Khuyên cha mẹ ngày thường niệm Phật
Miệng hằng nên nói thật ăn chay
Chúng sanh nghiệp sát đừng gây
Tu hành thập thiện trồng cây phúc lành
Dù một kiếp chưa thành chánh giác.
Song nhân lành quả chắc có phen
Làm người phải dứt trần duyên
Tu hành gắng gỏi báo đền ơn sâu
Khỏi mang tiếng cạo râu cắt tóc
Không thẹn thân khoát phúc điền y
Phật nhà trước hãy thờ đi.
Phật nhà chưa biết, biết chi Phật chùa
Lời thành thật con vừa trình tấu
Cầu Thế Tôn hiểu thấu lòng con
Từ bi tế độ vuông tròn (vong hồn)
Siêu sanh lạc quốc ngồi trên đài vàng.
Nam Mô Siêu Lạc Ðộ Bồ Tát Ma Ha Tát.

 Bài truyền khẩu chép lại - chưa rõ xuất xứ - do Dương Kinh Thành cung cấp.
 Tìm thấy trong tập bản thảo đánh máy của tủ sách Giác Ðạo Như Tâm - Thủ Ðức 1979.

195. VĂN PHÁT NGUYỆN BÁO ÂN PHỤ MẪU
(Sám tụng Vu lan 7)


Cúi đầu kính lạy Phật
Từ tôn trên ba cõi
Dủ lòng thương cứu độ
Chúng sanh khắp mười phương
Con này phát nguyện lành
Trì tụng kinh báo ân
Ðáp nghĩa cùng mẹ cha
Ðược nghe tám thứ tiếng
Cùng với năm lời nguyền
Hay là mọi khổ hạnh
Thâm ân chẳng thể đền
Lòng con nay dũng mãnh
Trì tụng lễ Tam bảo
Ðền cả bốn trọng ân
Khắp giúp ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát Bồ đề tâm
Ðền đáp báo thâm ân
Khuất còn đều lợi lạc
Ai trì tụng kinh nầy
Sau đây cũng thành Phật
Xin Phật cởi mở cho
Tất cả các chúng con
Ðều trọn thành Phật đạo.
Nam Mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
 Trích trong "Nghi thức tụng niệm " - Chùa Niệm Phật Bình Dương ấn hành 1970. - Là bài phát nguyện trước hoặc sau khi tụng kinh Báo Ân tháng bảy hằng năm.

196. SÁM DƯỢC SƯ CẦU TIÊU TAI
(Sám tán cầu an 4)


Lòng thành đệ tử xin cầu
Nhờ ơn đức Phật cứu âu tai nàn
Vì trong bá tánh chẳng an
Nương kinh công đức lập đàn Dược Sư
Nguyên do những khổ bấy chừ
Thảm thương dân chúng quá ư đau lòng
Chẳng nài có của cùng không
Ngày đêm lạy Phật ra công khẩn cầu
Nguyện cho khắp cả đâu đâu
Nhơn nhơn xứ xứ bớt sầu bớt lo
Nhà nhà ăn mặc ấm no
Hưởng phần vui vẻ đồng lo tu hành
Biết đời diệt diệt sanh sanh
Có không không có tan tành đổi thay
Khác nào như gió như mây
Như sương như điển hiện nay rõ ràng
Ðó là lẽ sự thế gian
Mau mau tránh khỏi tầm đàng chơn tu
Nguyện theo chánh pháp vô dư
Hoàn toàn dứt khổ đồng chư Phật đà
Phân thân qua cõi Ta bà
Từ bi tiếp độ những là chúng sanh
Nguyện cho bá tánh tu hành
Ðồng về cực lạc đồng sanh sen vàng
Nam mô tịnh độ Lạc bang
Chứng minh đệ tử Tây phang mau về.

 Trích soạn theo "Pháp Môn Tu Tịnh Ðộ" - Chùa Ðại Giác ấn hành Sàigòn 1974.

197. SÁM CẦU TẬT BỆNH TIÊU TRỪ
(Sám tán cầu an 5)


Cúi đầu lễ Phật Di Ðà
Dược Sư hải hội cùng là Quan Âm
Mở khai đức rộng thậm thâm
Xót thương pháp giới lỗi lầm cứu con
Thân tật bệnh mỏi mòn đau yếu
Vì huyễn thân triền níu nghiệp trần
Chí thành lạy Phật ân cần
Cầu cho tật bệnh giảm lần hiểm nguy
Hoặc tội ác khinh khi Tam Bảo
Miệng hung hăng chẳng kể Thánh thần
Tạo nhiều oan nghiệp xoay vần
Nhồi căn trả quả chịu phần ốm đau
Lúc mê muội cầm dao mổ xẻ
Chặt nấu bầm giết hại chúng sanh
Món ăn vừa miệng ngon lành
Ngày nay thọ bệnh tử sanh đáo đầu
Dẫy đầy oan nghiệp thẩm sâu
Xét ra mới biết từ lâu lỗi lầm
Kiếp tạo ác lung lăng không kể
Nay ốm đau làm lễ khẩn cầu
Cho hay nhân quả nhiệm mầu
Giống chi hưởng nấy tránh đâu khỏi nàn
Nay sám hối lập đàn cầu nguyện
Ðức từ bi linh hiển độ con
Nhẹ nhàng các nghiệp tiêu mòn
Thân này dứt hết chẳng còn ốm đau
Quả nhơn chẳng trước thời sau
Gẫm cơn báo ứng chậm mau mấy hồi
Nay con sám hối đã rồi
Tu hành theo Phật đền bồi tội xưa
Từ nay việc ác nguyện chừa
Nguyện làm việc thiện ngăn ngừa vọng tâm
Bao nhiêu oan nghiệp lỗi lầm
Con xin sám hối thân tâm đêm ngày
Bệnh căn qua khỏi nạn tai
Quy y Tam bảo trì trai tu hành
Nguyện về tịnh độ Lạc thành
Cầu cho thoát khỏi tử sanh luân hồi
Cõi trần khổ não lắm thôi
Quyết lòng niệm Phật về ngôi sen vàng
Nam mô tịnh độ Lạc bang
Dắt dìu đệ tử Tây phang mau về.

 Trích soạn theo "Nghi thức tụng niệm" - Niết Bàn Tịnh Xá ấn hành - Vũng Tàu 1970.

198. SÁM CỨU KHỔ QUAN THẾ ÂM
(Sám tụng Quan Âm 7)


Cúi đầu lạy Phổ Ðà Phật Tổ
Quan Thế Âm cứu khổ hồng trần
Từ bi phổ tế lê dân
Muôn loài nhuần gội hồng ân đức Ngài
Xin độ kẻ hằng ngày chiêm ngưỡng
Giúp người lành hạnh hưởng phước duyên
Gió giông sa đọa ghe thuyền
Tâm thành khẩn đảo, tai liền giảm tan
Rủi lầm bước vào đàng đạo tặc
Vướng đao binh thắt ngặt thảm sầu
Nhờ ơn bủa khắp bốn châu
Tiếng than xúc động tầm âu độ người
Hoặc hung bạo bị nơi xiềng tỏa
Ở hiền lành mắc họa thình lình
Chí thành khẩn vái thánh minh
Quan Âm Bồ Tát anh linh cứu nàn
Gặp yêu quái cản đàng ngăn ngõ
Ðức Từ hàng chẳng bỏ người lành
Tà mà nghe đến oai danh
Mắt không dám ngó khó hành hại thân
Cảm, thử, thấp, tâm thần trầm trệ
Mang bệnh căn thân thể xốn xang
Hồn mơ chợt tỉnh trí ngoan
Quan Âm niệm đặng, tai nàn sẽ tiêu
Người vô tự, quạnh hiu sau trước
Sửa tấc lòng tác phước khẩn cầu
Cho trai hiển đạt trí mầu
Gái ngoan đoan chánh ngõ hầu thuần lương
Lòng thê thứ nhiều phương tin tưởng
Quan Thế Âm liệu lượng hóa thân
Xót thương trợ kẻ phàm trần
Dắt dìu thuyết pháp chóng gần Phật tiên
Trí ngu muội đảo điên minh mẫn
Tánh sân si cầu khẩn giải oan
Như lòng tà dục dấy loàn
Sớm khuya tụng niệm đặng an tinh thần
Cơn nước lửa khó phần trốn tránh
Lúc hiểm nguy tâm tánh kinh hoàng
Thật lòng khấn vái khỏi nàn
Nhành dương cam lộ rưới tan diệu kỳ
Ðệ tử chúng con qui mạng lễ
Mong ơn trên phổ tế mười phương
Chúng sanh thoát chốn tai ương
Tránh nơi khổ não, tránh đường chông gai
Nhờ Bồ Tát, Như Lai lân mẫn
Ðộ cho con tinh tấn tu hành
Bền lòng chặc dạ kính thành
Lâm chung mau đặng vãng sanh sen vàng
Cầu cho cha mẹ bình an
Cửu huyền thất tổ nhẹ nhàng siêu thăng
Muôn dân phước lộc thọ tăng
Nhà yên nước thạnh, người năng làm lành
Mỗi người phát nguyện tu hành
Ðồng về Tịnh độ, đến thành Lạc bang.
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi, Cứu Khổ Cứu Nạn, Quảng Ðại Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
 Trích "Nghi Thức Tụng Niệm" - Niết Bàn Tịnh xá - Vũng Tàu 1970.

199. SÁM PHÁT NGUYỆN THẾ PHÁT (I)
(Sám phát nguyện 23)


Con từ lâu dại ngây mê tối
Chốn sáu đường qua lại luôn luôn
Biết bao đau khổ rầu buồn
Não phiền trói buộc vô thường chuyển luân
Cũng vì chấp huyễn thân là thật
Lấy giả danh làm vật thường còn
Cho thân là quí là hơn
Sửa sang sắc đẹp , áo quần , tóc mây
Vì đầu tóc mà gây nhơn quả
Tạo nghiệp duyên sa đọa đời đời
Biết bao nam nữ anh tài
Sa vào lưới dục hình hài lửa thiêu
Vì đầu tóc bao nhiêu phụ nữ
Sanh lòng ghen giận dữ thất tình
Rã tan bao cảnh gia đình
Tài ba thất đảo nước thành ngả nghiêng
Vì đầu tóc bao phen cực khổ
Lâm vào đường chồng vợ oan gia
Lại thêm cực khổ mẹ cha
Bà con quyến thuộc ruột rà anh em
Ðã ngu tối lại buồn một nỗi
Theo sách xưa thường lối dạy rằng
Tóc da thân thể sáu căn
Do cha mẹ tạo cấm hằng hủy thương
Giữ được vậy trọn đường nhân đạo
Ấy là con hiếu thảo trọn nghì
Nào ngờ càng giữ càng si
Thân này tạo tội tóc ni kết đầy
Tóc nầy kết tạo oan gia
Lâm vào biển khổ tột ta vẫn còn
Thân tật bệnh mỏi mòn ốm yếu
Bởi nghiệp căn triền níu xác thân
Chướng duyên ác nghiệp cõi trần
Phát ra đau nặng thất thần ăn năn
Nay sám hối ân cần phát nguyện
Thọ tam qui thoát biển trần lao
Tóc nầy nguyện cạo sạch đầu
Tẩy trừ nghiệp chướng hết mau bịnh tình
Xin cắt tóc dứt tình oan trái
Tóc sạch rồi rảnh khỏi đàn ba
Nguyện cầu chồng vợ mẹ cha
Thân bằng quyến thuộc cùng là chúng sanh
Thảy tu về cõi Lạc thành
Ðều nên Phật đạo, đều sanh sen vàng.
Nam Mô Tiêu tai tăng Phước Thọ Bồ Tát.
 Trích từ "Nghi thưc tụng niệm" - Chùa Ðại Giác trang 287-289 - Sàigòn 1974. Bài sử dụng cho lễ xuống tóc của hàng cư sĩ khi họ cầu nguyện điều gì có phát nguyện xuống tóc một lần .

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4989)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5220)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8009)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6150)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5631)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4267)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9187)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5733)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7047)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]