Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời nói ðầu

10/05/201318:11(Xem: 11935)
Lời nói ðầu

Tuyển tập các bài sám văn - Tập V: 55 Bài sám văn kết tập

Lời nói ðầu

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

Ý niệm ban đầu của chúng tôi, chỉ là việc sưu tập các bài sám văn để phục vụ cho việc tụng niệm ở các thời khóa trong chùa hay các đạo tràng, dần dà, trong quá trình sưu khảo tìm tòi ở các kho tư liệu nơi chùa, thư viện, chúng tôi phát hiện được thêm đó đây nhiều tư liệu sám văn quý giá đã bị quên lãng với thời gian...
Ðó là động lực để chúng tôi tiếp tục công trình, và kết quả ngày nay là tuyển tập sám văn số 5 này được hoàn tất ra mắt quí Tôn túc, độc giả thiện tri thức, Phật tử xa gần.
Ở tuyển tập này, ngoài việc tiếp tục sắp xếp phân loại mã số như các tuyển tập trước đã làm, chúng tôi còn muốn giới thiệu đến quí độc giả, những tư liệu sám văn có giá trị lịch sử, được trước tác bởi các bậc Danh Tăng của phong trào Chấn Hưng như: Pháp sư Bích Liên, Thái Không, Khánh Anh, Toàn Nhật, Huệ Ðăng... Qua các áng thơ văn, sám tụng này, chúng ta thấy được một giai đoạn nở rộ sự đối họa trong lĩnh vực diễn nghĩa bằng tài hoa ngòi bút của từng tác giả, góp phần dấy lên phong trào học hỏi giáo lý qua thơ văn diễn Nôm, và cải biên lễ thức chữ Hán cũ bằng tụng đọc Quốc ngữ qua Sám văn diễn nghĩa. Chính những tác phẩm diễn Nôm ở giai đoạn này của các vị Tổ sư, mà sinh khí tu học nghiên cứu của quần chúng nơi nơi được đẩy lên cao trong phong trào Chấn Hưng lúc bấy giờ.
Ngày nay, lần giở những chồng tư liệu cũ sắp bị mục rã theo năm tháng bởi mối mọt và thời gian, chúng tôi thật sự xúc động trước công hạnh của các bậc Tiền nhân, cảm nhận được cái tâm của các Tổ sư khi đọc lại, rung cảm trước ngữ nghĩa văn chương, sự thi thố tài năng, chúng tôi chỉ có thể sao chép lại, đưa vào tuyển tập này, hầu làm phong phú công trình sưu tập sám văn hiện nay để cho đương thời và mai hậu làm tư liệu nghiên cứu và sử dụng.
Những mảng đối họa của các Tác giả Tổ sư, chúng ta có thể tìm thấy được qua các mô típ sám văn chữ Hán nổi tiếng như: Khể Thủ, Qui Mạng, Thập Phương và Nhứt Tâm... Về các mô típ chữ Việt như: Tống Chung (Tống Táng), Văn Tế Cô Hồn, Cảnh Tỉnh Vô Thường... đã thể hiện phong cách văn chương và tâm hồn các Ngài, lúc khôi hài, lúc bi lụy. Và hơn hết là cách dùng chữ giản dị bình dân, thoải mái ngẫu hứng. Tuy nhiên, đôi khi có sử dụng những từ địa phương, điển tích, có thể khiến chúng ta ngày nay khó hiểu, khó đọc tụng. Ðối với các bài mà tác giả là các Tổ sư danh tiếng đã nói ở trên thì chúng tôi sao y nguyên bản, trước là do lòng tôn trọng văn phong, sau đó là để độc giả khi muốn nghiên cứu phân tích có được nguyên tác. Còn đối với các bài sám văn mà tác giả phổ thông, hãn hữu hoặc khuyết danh, thì chúng tôi mạn phép hiệu đính lại để độc giả tiện bề tụng niệm. Tuy nhiên, vẫn có chú thích xuất xứ và lý do sửa đổi biên tập.
Trong quá trình biên tập từ quyển 1 đến quyển 5, bởi thời gian kéo dài và hoàn tất quyển nào ra mắt độc giả quyển đó, nên không sao tránh khỏi sự bất cập và trùng lặp, cụ thể là giữa tập 1 và tập 2, cũng như những chuyên đề phát sinh ở các tập sau. Vì vậy chúng tôi cố gắng ở lần tái bản kế tiếp sẽ hiệu đính, sửa chữa lại những sai sót nói trên. Rất mong độc giả, thiện tri thức xa gần phát hiện mà chỉ bày cho, chúng tôi xin tiếp thu học hỏi. Chúng tôi chỉ biết cố gắng để sao làm ở mỗi tuyển tập, đều có đủ các đề tài sám văn cũ có, mới có, dài có, ngắn có, để cho độc giả khi cầm tuyển tập nào trong tay cũng có thể sử dụng như nhau theo mục đích yêu cầu, và chất lượng giá trị của mỗi tập cũng tương đồng.
Lưu giữ lại những áng văn của người xưa, chỉ thực sự tồn tại khi đã được sử dụng thường xuyên qua đọc tụng, ngâm vịnh trên loại hình sám văn. Vì thế, chúng tôi mong mỏi rằng, mỗi tuyển tập sám văn được ấn hành, không chỉ là sách để trong tủ nghiên cứu, mà được sử dụng vì lợi ích nhân sinh. Ðó là ý nguyện và niềm vui lớn nhất đối với người biên soạn, sẽ động viên chúng tôi tiếp tục công việc sưu tầm này nếu còn có nhân duyên.
Xin trân trọng.

Mạnh Ðông năm Kỷ Sửu, 15.11.1999
THÍCH ÐỒNG BỔN.


Giới thiệu đại cương khảo luận
LOẠI HÌNH SÁM VĂN
TRONG TÍN NGƯỠNG VĂN HÓA – PHẬT GIÁO VIỆT NAM


A. KHÁI LUẬN TỔNG THỂ
I. LÝ DO KHẢO CỨU ÐỀ TÀI.

Chứng minh là một loại hình văn học đặc thù, có giá trị văn hóa lớn, chưa được sưu khảo đầy đủ từ trước đến nay.
II. TÌM HIỂU ÐỘNG CƠ RA ÐỜI CÁC SÁM VĂN.
1. Cách sắp đặt những điều tâm nguyện có thứ tự.
2. Phổ biến rộng để cùng đọc tụng dễ dàng.
3. Tóm tắt giáo lý một cách đơn giản, trong sáng.
III. THẾ NÀO LÀ MỘT BÀI SÁM VĂN?
1. Các thể loại văn vần thường gặp.
2. Chuẩn mực để có thể tụng, ngâm, sám thuộc lòng.
3. Hội đủ các yếu tố của kệ, kinh, thơ, tích, văn chương.
B. KHẢO SÁT PHÂN TÍCH
I. CÁC NHÀ TRƯỚC TÁC – DỊCH GIẢ.

1. Các nhà trước tác bằng chữ Hán.
2. Các nhà chuyển ngữ diễn Nôm.
3. Các nhà trước tác bằng chữ Nôm.
4. Các nhà biên soạn bằng chữ Việt.
II. HỆ THỐNG VÀ PHÂN LOẠI SÁM VĂN.
1. Phân loại theo ngôn ngữ Hán – Nôm ¬– Việt.
2. Phân loại theo thể loại văn chương – thơ.
3. Phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa.
4. Phân loại theo nhóm tác giả và giai đoạn.
III. SO SÁNH VỀ CÁC DỊ BẢN VÀ SỰ BIẾN THIÊN.
1. Các dị bản và nguyên nhân từ trước tác.
2. Các dị bản và sự biến thiên từ trùng lắp.
3. Các dị bản từ sự cải biên.
IV. PHÂN TÍCH Ý NGHĨA ÐIỂN HÌNH MỘT BÀI SÁM VĂN.
1. Hệ thống bố cục và đại ý.
2. Tính văn học và giá trị nghệ thuật.
3. Tính triết học và mục tiêu đạo đức.
4. Giá trị phổ biến trong dân gian.
5. Những mặt hạn chế của Sám văn.
C. NHẬN ÐỊNH GIÁ TRỊ
I. ÐÁNH GIÁ TOÀN DIỆN VỀ LOẠI HÌNH SÁM VĂN.

— Sự phong phú.
— Sự phổ cập.
— Sự đơn giản hóa triết lý.
— Tác động trực tiếp đến tâm hồn.
— Là kim chỉ nam cho tu tập hàng ngày.
II. Ý NGHĨA CỦA VIỆC KHẢO CỨU.
— Làm cho thấy được giá trị đích thực của Sám văn.
— Có được hệ thống toàn diện về loại hình Sám văn.
— Tạo được sự nhất quán trong sử dụng Sám văn.
— Mở ra phương pháp sưu khảo và chọn lọc lại Sám văn hay.
— Tiêu chuẩn cho sáng tác mới để phát triển Sám văn.
III. MỘT SỐ BÀI SÁM VĂN TIÊU BIỂU.
— Phụ lục các nguyên bản gốc.
— Danh mục sám văn đã được hệ thống mã số.
— Tư liệu sưu khảo.

TP. HCM ngày 20.8.1997
Người biên khảo công trình
THÍCH ÐỒNG BỔN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4989)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5221)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8009)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6150)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5631)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4267)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9187)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5733)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7047)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]