Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần thứ III: Các bài sám văn - báo hiếu - cầu an

10/05/201318:01(Xem: 16421)
Phần thứ III: Các bài sám văn - báo hiếu - cầu an

Tuyển tập các bài sám văn - Tập IV: 55 Bài sám văn chọn lọc

Phần thứ III: Các bài sám văn - báo hiếu - cầu an

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

194. SÁM HIẾU TỪ
(Sám báo hiếu 11)


Nước sông nọ có nguồn mới chảy.
Hạt thóc kia có cấy mới lên
Phàm phu cho đến Thánh Hiền
Nếu không cha mẹ sao nên thân người
Trong mười tháng mặt xanh da bủng
Vì nuôi con bụng ỏng lưng eo
Ba năm bú mớm nâng niu
Cam sài mẹ chịu hẩm hiu mẹ buồn
Hai bầu sữa nước nguồn khôn ví
Dạ nuôi con sá kể nhọc nhằn.
Ðêm đông ấp nệm ủ chăn
Chiếu giường ẩm ướt dành thân mẹ nằm
Năm canh những âm thầm với bóng
Mong cho con chóng lớn nên người
Tháng hè như nấu như sôi
Tay xoa tay quạt mồ hôi đầm đìa.
Hàm răng cũng thường khi biếng xỉa.
Ðài gương soi cũng để bụi mờ
Xuân xanh mấy chốc đã già.
Trời cao bể rộng khôn mà ví ơn.
Còn cha phải tìm cơm lo cháo
Vì con lo quần áo đơn mền.
Một ngày dần một lớn lên
Ðón Thầy tìm bạn bút nghiên học hành
Dạy ăn nói cho thành khuôn phép
Ðạo làm người dạy biết nông sâu
Lại cho dựng vợ gả chồng
Gây cơ lập nghiệp nối dòng mai sau
Công đức nặng trên tày non Thái
Ðạo làm con ta phải biết ngần
Sớm khuya phụng dưỡng chuyên cần
Ðem lòng phụng Phật sự Tăng mới là
Khi ăn ở vào ra hầu hạ
Dung nhan thường hòa nhã vui tươi
Không may trái nắng trở trời
Tìm thầy tìm thuốc đêm ngày dưỡng nuôi
Mùa nóng nực không ngơi tay quạt
Tiết ngày đông sắp đặt màn chăn
Vì cha mẹ quý hơn thân
Nhẹ bên tình ái, nặngï phần cù lao
Gương hiếu hạnh kể sao cho xiết
Muôn điều lành kể liệt đầu tiên
Kìa như Nghiêu Thuấn vua hiền
Bởi tùy thuận ý chẳng phiền lòng cha
Ông Mạnh Tử sương sa rét mướt
Mảnh áo lau cảm được lòng từ
Gương con nuôi mẹ chuyện xưa
Kìa ông Quách Tử trời cho lọ vàng.
Chẳng qua đấng anh hùng hào kiệt
Hiếu có tròn sự nghiệp mới cao,
Muốn người thoát khỏi trần lao
Công ơn cốt dục nỡ nào làm quên
Vứt bỏ tấm thân nên chẳng đoái
Quyết mọi điều ân ái bước ra
Sắc trần chẳng chút nhuộm qua
Giàu sang trò ảo, vinh hoa chuyện đời
Chí Lục độ bằng mười rắn rỏi
Chữ Từ ân thúc gọi bên tai
Vì mình thoát khỏi trần ai
Mẹ cha hẳn được lên đài tiêu dao
Ðấng Ðại giác kề bao nhiêu kiếp
Vì sinh thành chịu chết cũng cam
Mục Liên dốc một hiếu tâm
Thần thông đắc đạo ơn thâm trả đêàn.
Mẹ ngục tối trở lên Tịnh độ
Con như ngài tiến bộ mới cao
Ba la mật thác sinh vào
Là ngài Ðịa Tạng má đào lạ thay
Gậy tích trượng ra tay cứu mẫu
Ngọc minh châu soi thấu cõi đời
Kiếp sau lại trở làm người
Với tên Quang Mục đứng ngồi nghiêm trang
Thích trứng cá mẹ mang tội báo
Vào ngục ngài hóa đạo sinh thiên
Hiếu như thế mới nên đại hiếu
Tu như ngài mới hiểu đường tu
Dẫu như thế tục khư khư
Ngọt bùi ấm lạnh chăm lo thân thờ.
Một ngày yên giấc ngàn thu
Hồn mê ngơ ngẩn bây giờ nương đâu ?
Hiếu thế tục, chỉ trầu cơm nước
Hiếu Phật đà giải thoát luân hồi
Dám khuyên khắp cả mọi người
Báo ơn khá tỏ chớ sai lầm đường
Khuyên cha mẹ ngày thường niệm Phật
Miệng hằng nên nói thật ăn chay
Chúng sanh nghiệp sát đừng gây
Tu hành thập thiện trồng cây phúc lành
Dù một kiếp chưa thành chánh giác.
Song nhân lành quả chắc có phen
Làm người phải dứt trần duyên
Tu hành gắng gỏi báo đền ơn sâu
Khỏi mang tiếng cạo râu cắt tóc
Không thẹn thân khoát phúc điền y
Phật nhà trước hãy thờ đi.
Phật nhà chưa biết, biết chi Phật chùa
Lời thành thật con vừa trình tấu
Cầu Thế Tôn hiểu thấu lòng con
Từ bi tế độ vuông tròn (vong hồn)
Siêu sanh lạc quốc ngồi trên đài vàng.
Nam Mô Siêu Lạc Ðộ Bồ Tát Ma Ha Tát.

 Bài truyền khẩu chép lại - chưa rõ xuất xứ - do Dương Kinh Thành cung cấp.
 Tìm thấy trong tập bản thảo đánh máy của tủ sách Giác Ðạo Như Tâm - Thủ Ðức 1979.

195. VĂN PHÁT NGUYỆN BÁO ÂN PHỤ MẪU
(Sám tụng Vu lan 7)


Cúi đầu kính lạy Phật
Từ tôn trên ba cõi
Dủ lòng thương cứu độ
Chúng sanh khắp mười phương
Con này phát nguyện lành
Trì tụng kinh báo ân
Ðáp nghĩa cùng mẹ cha
Ðược nghe tám thứ tiếng
Cùng với năm lời nguyền
Hay là mọi khổ hạnh
Thâm ân chẳng thể đền
Lòng con nay dũng mãnh
Trì tụng lễ Tam bảo
Ðền cả bốn trọng ân
Khắp giúp ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát Bồ đề tâm
Ðền đáp báo thâm ân
Khuất còn đều lợi lạc
Ai trì tụng kinh nầy
Sau đây cũng thành Phật
Xin Phật cởi mở cho
Tất cả các chúng con
Ðều trọn thành Phật đạo.
Nam Mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
 Trích trong "Nghi thức tụng niệm " - Chùa Niệm Phật Bình Dương ấn hành 1970. - Là bài phát nguyện trước hoặc sau khi tụng kinh Báo Ân tháng bảy hằng năm.

196. SÁM DƯỢC SƯ CẦU TIÊU TAI
(Sám tán cầu an 4)


Lòng thành đệ tử xin cầu
Nhờ ơn đức Phật cứu âu tai nàn
Vì trong bá tánh chẳng an
Nương kinh công đức lập đàn Dược Sư
Nguyên do những khổ bấy chừ
Thảm thương dân chúng quá ư đau lòng
Chẳng nài có của cùng không
Ngày đêm lạy Phật ra công khẩn cầu
Nguyện cho khắp cả đâu đâu
Nhơn nhơn xứ xứ bớt sầu bớt lo
Nhà nhà ăn mặc ấm no
Hưởng phần vui vẻ đồng lo tu hành
Biết đời diệt diệt sanh sanh
Có không không có tan tành đổi thay
Khác nào như gió như mây
Như sương như điển hiện nay rõ ràng
Ðó là lẽ sự thế gian
Mau mau tránh khỏi tầm đàng chơn tu
Nguyện theo chánh pháp vô dư
Hoàn toàn dứt khổ đồng chư Phật đà
Phân thân qua cõi Ta bà
Từ bi tiếp độ những là chúng sanh
Nguyện cho bá tánh tu hành
Ðồng về cực lạc đồng sanh sen vàng
Nam mô tịnh độ Lạc bang
Chứng minh đệ tử Tây phang mau về.

 Trích soạn theo "Pháp Môn Tu Tịnh Ðộ" - Chùa Ðại Giác ấn hành Sàigòn 1974.

197. SÁM CẦU TẬT BỆNH TIÊU TRỪ
(Sám tán cầu an 5)


Cúi đầu lễ Phật Di Ðà
Dược Sư hải hội cùng là Quan Âm
Mở khai đức rộng thậm thâm
Xót thương pháp giới lỗi lầm cứu con
Thân tật bệnh mỏi mòn đau yếu
Vì huyễn thân triền níu nghiệp trần
Chí thành lạy Phật ân cần
Cầu cho tật bệnh giảm lần hiểm nguy
Hoặc tội ác khinh khi Tam Bảo
Miệng hung hăng chẳng kể Thánh thần
Tạo nhiều oan nghiệp xoay vần
Nhồi căn trả quả chịu phần ốm đau
Lúc mê muội cầm dao mổ xẻ
Chặt nấu bầm giết hại chúng sanh
Món ăn vừa miệng ngon lành
Ngày nay thọ bệnh tử sanh đáo đầu
Dẫy đầy oan nghiệp thẩm sâu
Xét ra mới biết từ lâu lỗi lầm
Kiếp tạo ác lung lăng không kể
Nay ốm đau làm lễ khẩn cầu
Cho hay nhân quả nhiệm mầu
Giống chi hưởng nấy tránh đâu khỏi nàn
Nay sám hối lập đàn cầu nguyện
Ðức từ bi linh hiển độ con
Nhẹ nhàng các nghiệp tiêu mòn
Thân này dứt hết chẳng còn ốm đau
Quả nhơn chẳng trước thời sau
Gẫm cơn báo ứng chậm mau mấy hồi
Nay con sám hối đã rồi
Tu hành theo Phật đền bồi tội xưa
Từ nay việc ác nguyện chừa
Nguyện làm việc thiện ngăn ngừa vọng tâm
Bao nhiêu oan nghiệp lỗi lầm
Con xin sám hối thân tâm đêm ngày
Bệnh căn qua khỏi nạn tai
Quy y Tam bảo trì trai tu hành
Nguyện về tịnh độ Lạc thành
Cầu cho thoát khỏi tử sanh luân hồi
Cõi trần khổ não lắm thôi
Quyết lòng niệm Phật về ngôi sen vàng
Nam mô tịnh độ Lạc bang
Dắt dìu đệ tử Tây phang mau về.

 Trích soạn theo "Nghi thức tụng niệm" - Niết Bàn Tịnh Xá ấn hành - Vũng Tàu 1970.

198. SÁM CỨU KHỔ QUAN THẾ ÂM
(Sám tụng Quan Âm 7)


Cúi đầu lạy Phổ Ðà Phật Tổ
Quan Thế Âm cứu khổ hồng trần
Từ bi phổ tế lê dân
Muôn loài nhuần gội hồng ân đức Ngài
Xin độ kẻ hằng ngày chiêm ngưỡng
Giúp người lành hạnh hưởng phước duyên
Gió giông sa đọa ghe thuyền
Tâm thành khẩn đảo, tai liền giảm tan
Rủi lầm bước vào đàng đạo tặc
Vướng đao binh thắt ngặt thảm sầu
Nhờ ơn bủa khắp bốn châu
Tiếng than xúc động tầm âu độ người
Hoặc hung bạo bị nơi xiềng tỏa
Ở hiền lành mắc họa thình lình
Chí thành khẩn vái thánh minh
Quan Âm Bồ Tát anh linh cứu nàn
Gặp yêu quái cản đàng ngăn ngõ
Ðức Từ hàng chẳng bỏ người lành
Tà mà nghe đến oai danh
Mắt không dám ngó khó hành hại thân
Cảm, thử, thấp, tâm thần trầm trệ
Mang bệnh căn thân thể xốn xang
Hồn mơ chợt tỉnh trí ngoan
Quan Âm niệm đặng, tai nàn sẽ tiêu
Người vô tự, quạnh hiu sau trước
Sửa tấc lòng tác phước khẩn cầu
Cho trai hiển đạt trí mầu
Gái ngoan đoan chánh ngõ hầu thuần lương
Lòng thê thứ nhiều phương tin tưởng
Quan Thế Âm liệu lượng hóa thân
Xót thương trợ kẻ phàm trần
Dắt dìu thuyết pháp chóng gần Phật tiên
Trí ngu muội đảo điên minh mẫn
Tánh sân si cầu khẩn giải oan
Như lòng tà dục dấy loàn
Sớm khuya tụng niệm đặng an tinh thần
Cơn nước lửa khó phần trốn tránh
Lúc hiểm nguy tâm tánh kinh hoàng
Thật lòng khấn vái khỏi nàn
Nhành dương cam lộ rưới tan diệu kỳ
Ðệ tử chúng con qui mạng lễ
Mong ơn trên phổ tế mười phương
Chúng sanh thoát chốn tai ương
Tránh nơi khổ não, tránh đường chông gai
Nhờ Bồ Tát, Như Lai lân mẫn
Ðộ cho con tinh tấn tu hành
Bền lòng chặc dạ kính thành
Lâm chung mau đặng vãng sanh sen vàng
Cầu cho cha mẹ bình an
Cửu huyền thất tổ nhẹ nhàng siêu thăng
Muôn dân phước lộc thọ tăng
Nhà yên nước thạnh, người năng làm lành
Mỗi người phát nguyện tu hành
Ðồng về Tịnh độ, đến thành Lạc bang.
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi, Cứu Khổ Cứu Nạn, Quảng Ðại Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
 Trích "Nghi Thức Tụng Niệm" - Niết Bàn Tịnh xá - Vũng Tàu 1970.

199. SÁM PHÁT NGUYỆN THẾ PHÁT (I)
(Sám phát nguyện 23)


Con từ lâu dại ngây mê tối
Chốn sáu đường qua lại luôn luôn
Biết bao đau khổ rầu buồn
Não phiền trói buộc vô thường chuyển luân
Cũng vì chấp huyễn thân là thật
Lấy giả danh làm vật thường còn
Cho thân là quí là hơn
Sửa sang sắc đẹp , áo quần , tóc mây
Vì đầu tóc mà gây nhơn quả
Tạo nghiệp duyên sa đọa đời đời
Biết bao nam nữ anh tài
Sa vào lưới dục hình hài lửa thiêu
Vì đầu tóc bao nhiêu phụ nữ
Sanh lòng ghen giận dữ thất tình
Rã tan bao cảnh gia đình
Tài ba thất đảo nước thành ngả nghiêng
Vì đầu tóc bao phen cực khổ
Lâm vào đường chồng vợ oan gia
Lại thêm cực khổ mẹ cha
Bà con quyến thuộc ruột rà anh em
Ðã ngu tối lại buồn một nỗi
Theo sách xưa thường lối dạy rằng
Tóc da thân thể sáu căn
Do cha mẹ tạo cấm hằng hủy thương
Giữ được vậy trọn đường nhân đạo
Ấy là con hiếu thảo trọn nghì
Nào ngờ càng giữ càng si
Thân này tạo tội tóc ni kết đầy
Tóc nầy kết tạo oan gia
Lâm vào biển khổ tột ta vẫn còn
Thân tật bệnh mỏi mòn ốm yếu
Bởi nghiệp căn triền níu xác thân
Chướng duyên ác nghiệp cõi trần
Phát ra đau nặng thất thần ăn năn
Nay sám hối ân cần phát nguyện
Thọ tam qui thoát biển trần lao
Tóc nầy nguyện cạo sạch đầu
Tẩy trừ nghiệp chướng hết mau bịnh tình
Xin cắt tóc dứt tình oan trái
Tóc sạch rồi rảnh khỏi đàn ba
Nguyện cầu chồng vợ mẹ cha
Thân bằng quyến thuộc cùng là chúng sanh
Thảy tu về cõi Lạc thành
Ðều nên Phật đạo, đều sanh sen vàng.
Nam Mô Tiêu tai tăng Phước Thọ Bồ Tát.
 Trích từ "Nghi thưc tụng niệm" - Chùa Ðại Giác trang 287-289 - Sàigòn 1974. Bài sử dụng cho lễ xuống tóc của hàng cư sĩ khi họ cầu nguyện điều gì có phát nguyện xuống tóc một lần .

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4536)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7355)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4765)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4881)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5310)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10282)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9033)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6109)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8796)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4978)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]