Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ,
Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về thiền sư Đông Minh Huệ Sảm (1372-1441), ngài thuộc tổ thứ 60 tính từ sơ tổ Ca Diếp, tổ thứ 27 sau Lục Tổ Huệ Năng, và cũng là Tổ thứ 23 của Thiển Phái Lâm Tế. Cuộc đời Ngài trải qua triều đại nhà Minh, cùng thời với triều đại nhà Hậu Lê ở Việt Nam.
Thiền Sư Đông Minh Huệ Sảm họ Vương, người Hồ Quảng, tham yết Tổ Bảo Tạng.
Một hôm, Tổ Bảo Tạng hỏi: "Tâm không là Phật , trí không là đạo, ông hiểu thế nào ?"
Ngài bước đến chào hỏi, rồi chấp tay đứng hầu tổ. Tổ Bảo Tạng trách:
"Ông ở đây đã lâu, sao lại còn mang một mớ kiến giải thế này ?"
Ngài vô cùng bực bội, hai ngày sau, bỗng tỏ ngộ chân tướng vạn pháp, liền đến Tổ Bảo Tạng trình bài kệ:
“ Một quyền đấm vỡ cõi hư không
Trăm ức Tu-di chẳng lộ tông
Dám hỏi nơi này ai kẻ chủ
Phù tang tỏa sáng một vầng hồng”.
Sư Phụ góp ý, lịch sử ghi “ngài vô cùng bực bội, hai ngày sau bỗng tỏ ngộ...”. Sư Phụ không đồng ý là làm gì có chuyện bực bội, có thể lúc sư phụ Bảo Tạng hỏi, ngài chưa ngộ, vì còn di chuyển là còn chưa tỏ (bước tới chào hỏi). Hai ngày sau, ngài triệt ngộ và trình kệ.
Sư Phụ giải thích:
1-Tâm không chính là chơn tâm, chơn tâm là chánh niệm, chánh niệm cũng là vô niệm. Niệm có, niệm không đều là vọng tâm, niệm thiện niệm ác cũng là vọng tâm, niệm Phật pháp, niệm thế pháp cũng là vọng tâm. Có niệm là vọng, vô niệm chính là chân. Vô niệm cũng không phải là không có niệm, bất cứ niệm nào đều không có, vì còn niệm tà niệm chánh là còn đối đãi.
Trong vô niệm có vô lượng trí huệ, có vô lượng công đức như Kinh Pháp Hoa gọi là “tánh cụ”, Kinh Hoa Nghiêm Phật khẳng định “tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng trí huệ Như Lai”. Chính vì vậy mà khi nghe xong Kinh Kim Cang từ Sư Phụ Hoằng Nhẫn, Lục Tổ Huệ Năng đã dõng dặt tuyên bố:
“Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp !”.
Về sau, ngài trụ trì chùa Đông Minh, Tuyên Đức. Ngày 29/6/1441 (Tân Dậu), ngài ngồi kiết già an nhiên thị tịch, thọ thế 70 tuổi, chúng đệ tử trà tỳ thu được nhiều xá lợi, tháp của ngài được tôn trí ở gò phía đông của núi.
Bài tán:
Phù Tang vầng sáng
Chiếu tận trời xanh
Bốn câu, trăm lỗi
Lìa hết diệu huyền
Biển cả sóng xô
Tu-di nghiêng đổ
Tòa đoạn Đông Minh
Hoa cười liễu ngủ.
Câu cuối của bài kệ trình pháp triệt ngộ của ngài, Phù tang tỏa sáng một vừng hồng, tiên tri về sau sự giáo hoá của ngài được phát triển ở Nhật.
Sư Phụ giải thích:
Bốn câu, là tứ cú: có, không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không.
Tất cả tư tưởng đều tương đối, đều chẳng ngoài bốn câu tứ cú này.
Trăm lỗi, là bách phi: là phủ định, có nghĩa là, tất cả văn tự ngôn ngữ đều chẳng thật có, mục đích là để trừ bỏ mê chấp của chúng sanh, khiến cho họ ngộ nhập lý các pháp vô tướng, bất khả đắc.
Lìa Tứ cú, tuyệt bách phi để đối trị phiền não như 36 pháp đối trong Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng giúp chúng sanh dập tắt vọng tưởng phiền não nhiềm ô, sư phụ liệt kê chi tiết phần này, con xin ghi chép để học thuộc lòng:
1/Ngoại cảnh vô tình có 5 đối: Trời đối đất, nhựt đối nguyệt, sáng đối tối, âm đối dương, thủy đối hỏa.
2/ Pháp tướng ngôn ngữ có 12 đối: Ngữ đối pháp, hữu đối vô, hữu sắc đối vô sắc, hữu tướng đối vô tướng, hữu lậu đối vô lậu, sắc đối không, động đối tịnh, thanh đối trược, phàm đối thánh, tăng đối tục, già đối trẻ, lớn đối nhỏ.
3/Tự tánh khởi dụng có 19 đối: Dài đối ngắn, tà đối chánh, si đối huệ, ngu đối trí, loạn đối định, từ đối độc, giới đối quấy, trực đối khúc, thật đối hư, chông gai đối bằng phẳng, phiền não đối bồ đề, thường đối vô thường, bi đối hại, hỷ đối sân, bố thí đối bỏn xẻn, tiến đối lui, sanh đối diệt, pháp thân đối sắc thân, hóa thân đối báo thân.
Sư Phụ đọc bài kệ lìa tứ cú của thiền sư Từ Đạo Hạnh:
Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không.
Dịch nghĩa:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông
Ai hay không có, có không là gì ?
Có chỉ là tạm có, do duyên hợp mà có, duyên tan đi thì không còn nữa, như bóng trăng dưới nước, dù thấy có vầng trăng tròn sáng nhưng múc ánh trăng ấy lên sẽ không bao giờ làm được, mọi thứ trên đời này cũng giống như vậy đó.
Sư phụ cũng đọc bài kệ khai thị do Đệ Tứ Tăng Thống HT Thích Huyền Quang biên soạn mà Sư phụ hay đọc khi cúng cơm cho chư Hương Linh trong lễ tang:
Có, Không hồn phường phất
Hư Thực mộng mơ màng
Siêu độ nhờ Phật Pháp
Trời Tây trổ sen vàng.
Sư Phụ cũng diễn ngâm hai câu thơ của cụ Tâm Thái thường đọc thuộc lòng, diễn đạt sự chánh niệm phải luôn thể hiện trong từng giây phút bây giờ và tại đây:
Niệm Phật lơ láu ích chi
Sen kia khô héo khó mà tốt tươi...
Ngày 29-6 năm 1441 Sư an nhiên ngồi kiết già thị tịch, thọ thế 71 tuổi.
Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Đông Minh Huệ Sảm (1372-1441) của Hoà Thượng Hư Vân do Hoà Thượng Minh Cảnh dịch Việt.
Giả trang tướng lạ gạt người ngoài
Hàng thiệt chẳng lầm giá đúng sai
Nổi giận muốn khùng liền tỏ ngộ
Vùi đầu tham cứu chợt tâm khai
Hư không đập nát tình ý thức
Vượt khỏi chậu lồng, noãn thấp thai
Ánh sáng giữa trời, bừng tỏ rạng
Cầu vồng muôn sắc, rực kim đài.
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng bài pháp về thiền sư Đông Minh Huệ Sảm, sự ngộ đạo của Sư rất đơn giản là trả lời câu hỏi của sư phụ Bảo Tạng, “thế nào là tâm không là Phật, trí không là đạo “, hai ngày sau qua bài trình kệ “..một quyền đấm vỡ cõi hư không”..giải thích tâm không là tâm không có chứa một phiền não nào, trí không là trí thông suốt, triệt đoạn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).
Đạt đến chữ Không trong
Hành trạng Ngài, tuy tóm gọn vài chi tiết (1)
(1)- theo Lịch Sử Truyền Thừa Lâm Tế Chúc Thánh của TT Như Tịnh :
Sư họ Vương, tổ tiên vốn người Hồ Quảng, sau thân phụ Sư di chuyển đến Sơn Dương và sinh Sư tại đây
Năm 14 t , Sư theo Tổ Diệu Giác Trạm Nhiên xuất gia
Về sau đến tham kiến Tổ Bảo Tạng Phổ Trì được chánh pháp rồi đến Chiêu Thánh thọ cụ túc
Sau đó đến núi Cổ Đạo tại An Khê , gặp Phong Loan, Tú Bạt bèn kết làm bạn lữ và trụ tại đây 30 năm không hề xuống núi .
Từ đó Đạo Phong Sư vang dội nên đồ chúng theo về tu học rất đông .
Năm 1435 niên hiệu Tuyên Đức thứ 10 triều vua Minh Tuyên Tông , Sư được sắc phong trú trì Đông Minh thiền tự
Ngày 17/6. Năm 1441 niên hiệu Chánh Thống đời vua Minh Anh Tông , Sư bảo tập hợp chúng di huấn rồi ngày 29/6 Sư an nhiên thị tịch .
Khi hỏa thiêu nhục thân thu vô số xá lợi và được lập tháp thờ tại Đông Minh
Đệ tử nối pháp Sư là Hải Chu Vĩnh Từ
(2)
Sư phụ Bảo Tạng hỏi Sư Đông Minh hiểu thế nào về công án " Tâm Không là Phật, Trí Không là Đạo "
(3) Kệ trình sự chứng ngộ
Một quyền đấm vỡ cõi Hư Không
Trăm ức Tu Di chẳng lộ tông
Dám hỏi nơi này ai kẻ chủ ?
Phù tang tỏa sáng một vầng hồng.
(4) Bài tán của Hoà Thượng Hư Vân cúng dường Ngài Đông Minh - Huệ Sảm
Phù Tang vầng sáng chiếu tận trời xanh
Bốn câu, trăm lỗi lìa hết diệu huyền
Biển Cả sóng xô Tu Di nghiêng đổ
Tòa đoạn Đông Minh, hoa cười liễu ngủ !
(5). LY TỨ CÚ, TUYỆT BÁCH PHI
Tứ cú là : có, không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không. Tất cả tư tưởng đều chẳng ra ngoài tứ cú này, nếu trụ thì chướng ngại sự dụng của bản thể tự tánh mà sanh ra bách phi (đủ thứ sai lầm), nếu lìa thì hiển bày đại dụng của tự tánh mà tuyệt bách phi. (Thích Duy Lực).
Thí dụ như tứ cú của Tâm là (1) có tâm, (2) không tâm, (3) cũng có tâm cũng không tâm, và (4) chẳng có tâm chẳng không tâm.
Thiền Tông dạy lìa tứ cú này thì tránh được hàng trăm thứ sai lầm (bách phi)
VÀ theo chú giải tương tự
Ly tứ cú: – Ly là lìa, tứ là bốn, cú là câu. – Đây là bốn câu xác nhận và phủ nhận trong Thiền tông, xuất phát từ nước Ấn Độ.
Câu 1: – Có, không.
Câu 2: – Cũng có, cũng không.
Câu 3: – Chẳng phải có, chẳng phải không.
Câu 4: – Cũng chẳng phải có, cũng chẳng phải không.
Người tu theo Thiền tông phải bỏ bốn câu này mới bước vào sân Thiền tông học được.
Tuyệt bách phi: – Tuyệt là bỏ hẳn, bách là một trăm, phi là không.
Có nghĩa là bỏ hẳn lời giải thích, chỉ đưa vào đầu lời giải của 100 câu hỏi bằng chữ phi là đủ.
Tu theo Thiền tông, những người hỏi, người tu chỉ cần trả lời có một chữ phi là đủ. Dù họ có hỏi 100 câu, chỉ cần nói chữ phi là đã trả lời xong.
(6) 36 pháp đối trong Kinh Pháp Bảo Đàn
Tự tánh bao gồm vạn pháp, gọi là Hàm tạng Thức. Nếu khởi niệm suy lường tức là chuyển thức, khiến sanh lục thức, ra cửa lục căn, tiếp xúc lục trần. Như vậy mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng, tự tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh, niệm ác dụng tức chúng sanh dụng, niệm thiện dụng tức Phật dụng. Dụng bằng cách nào? Là do tự tánh lập ra pháp đối:
- Ngoại cảnh vô tình có năm đối: Trời đối đất, nhựt đối nguyệt, sáng đối tối, âm đối dương, thủy đối hỏa, ấy là năm đối.
- Pháp tướng ngôn ngữ có mười hai đối: Ngữ đối pháp, hữu đối vô, hữu sắc đối vô sắc, hữu tướng đối vô tướng, hữu lậu đối vô lậu, sắc đối không, động đối tịnh, thanh đối trược, phàm đối thánh, tăng đối tục, già đối trẻ, lớn đối nhỏ, ấy là mười hai đối.
- Tự tánh khởi dụng mười chín đối: Dài đối ngắn, tà đối chánh, si đối huệ, ngu đối trí, loạn đối định, từ đối độc, giới đối quấy, trực đối khúc, thật đối hư, chông gai đối bằng phẳng, phiền não đối bồ đề, thường đối vô thường, bi đối hại, hỷ đối sân, bố thí đối bỏn xẻn, tiến đối lui, sanh đối diệt, pháp thân đối sắc thân, hóa thân đối báo thân, ấy là mười chín đối vậy.
Sư bảo: "Ba mươi sáu pháp đối này nếu biết vận dụng thì thấu đạo và tất cả kinh pháp, ra vào thường lìa nhị biên. Dụng của tự tánh chẳng cần tác ý, nói năng với người, ngoài thì ở nơi tướng lìa tướng, trong thì nơi không lìa không. Nếu trọn chấp tướng thì sanh trưởng tà kiến, nếu trọn chấp không thì sanh trưởng vô minh.
(7) Kệ khai thị cúng linh của Đệ Tứ Tăng Thống HT Thích Huyền Quang
Có, Không hồn phường phất,
Hư , Thực mộng mơ màng
Siêu độ nhờ Phật Pháp
Trời Tây trổ sen vàng !
(8) Hai câu thơ trong bài Sám niệm Phật do Cụ Tâm Thái ( mẹ Giảng Sư ) đã truyền tụng :
Niệm Phật lơ láo ích chi
Sen kia khô héo khó mà tốt tươi .
(9)
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp!"
(10)
(Bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Đông Minh Huệ Sảm (1372-1441) của Hòa Thượng Hư Vân, do HT Minh Cảnh dịch Việt
🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
Trở về Mục Lục Bài giảng của TT Nguyên Tạng
về Chư Vị Thiền Sư Trung Hoa
🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️