Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ Nguyên Tạng,
Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài thứ 203 về Thiền Sư Hoàng Bá Hi Vận. Ngài thuộc đời thứ tư sau lục tổ Huệ Năng, là đệ tử đắc pháp của Thiền Sư Bách Trượng Hoài Hải và cũng là người đặt nền móng vững chắc cho Thiền phái Lâm Tế (Sư phụ của Thiền Sư Nghĩa Huyền, người khai sáng thiền phái Lâm Tế).
Ngài Hoàng Bá Hi Vận, người tỉnh Phúc Kiến, tiếng nói có âm thanh trong trẻo, tướng cao lớn và đẹp đẽ, trên trán có một cục thịt vun lên như viên bảo châu như ý.
Một hôm trên đường đến chiêm bái núi Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang, Ngài gặp một vị Tăng trông rất quen thuộc, nhìn kỷ thì là một người “mục quang xạ”, Sư Phụ giải thích là như người đã chết. Ngài Hoàng Bá không sợ nên cùng đi cùng nói chuyện. Khi đến một suối đầy nước và chảy mạnh, vị Tăng thúc Ngài đi qua. Ngài bảo vị Tăng ấy cứ tự đi qua, vị Tăng đi trên mặt nước (hiển thị thần thông). Ngài Hoàng Bá thấy vậy nên cảnh cáo vị Tăng kia không nên khoe khoan về thần thông của mình, nếu có thì tự biết tự tu chứ không nên hiển thị ra ngoài. Vị Tăng ấy không giận mà mở lời khen ngợi ngài Hoàng Bá là người có khí chất đại thừa và sau đó vị này tự rút lui, biến mất.
Sư Phụ giải thích, người tu khi tự thấy tánh, tận diệt hết phiền não nhiễm ô, tự nhiên sẽ có thần thông diệu dụng (tất nhiên hành giả phải trải qua quá trình tu hành miên mật chỉ-quán đồng thời, không ai biết), và chỉ sử dụng thần thông đúng lúc và cần thiết như Tổ Mã Minh bắt tại trận một tên ngoại đạo biến thành một con sâu chui vào bồ đoàn của Ngài để nghe trộm pháp, con sâu này chính là ngài Ca Tỳ Ma La, sau đó đã tự quy phục Tổ Mã Minh xuất gia tu học và trở thành vị Tổ PG Ấn Độ thứ 13. Cách sử dụng thần thông để của Tổ Mã Minh để hóa độ trong trường hợp này là không phạm.
Ngài Hoàng Bá đến Nam Xương, đảnh lễ tháp Mã Tổ, gặp TS Bách Trượng có tịnh thất ở gần.
Ngài Hoàng Bá hỏi Tổ Bách Trượng " Tông thừa từ xưa chỉ dạy như thế nào? "
TS Bách Trượng im lặng không trả lời.
Sư Phụ giải thích "Tông thừa" ở đây là chỉ cho Phật tánh, hành giả phải tự nhận biết, nên Tổ im lặng, nếu trả lời là vọng tưởng, điên đảo.
Ngài Hoàng Bá nói “Sp im lặng như thế thì không thể dạy bảo người đời sau, Pháp sẽ dứt tuyệt “.
TS Bách Trượng nói :”Tưởng con là một con người “. Rồi bỏ đi về Phương trượng
Ngài Hoàng Bá theo sau và tự nhận : “Người đặc biệt đến đây”.
TS Bách Trượng đã thầm nhận qua câu nói: “ Nếu vậy thì sau này con không được cô phụ ta”.
Sư Phụ giải thích là TS Bách Trượng hứa khả, cho Hoàng Bá nhập chúng tu học.
Một hôm TS Bách Trượng hỏi: “con từ đâu tới”.
Ngài Hoàng Bá thưa: “con mới nhổ nấm dưới núi Đại Hùng về”.
TS Bách Trượng hỏi: “lại thấy đại trùng chăng?” Sư phụ giải thích đại trùng (chữ Hán) là ý chỉ con thú to lớn (con cọp).
Ngài Hoàng Bá không trả lời, mà làm tiếng rống của con cọp.
TS Bách Trượng ấn chứng cho ngài Hoàng Bá.
Sau khi đắc pháp, TS Hoàng Bá đi hoằng pháp, đến một chùa Khai Nguyên, chúng tu học rất đông, gặp Tướng quốc Bùi Hưu là quan triều đình.
Bùi Hưu hỏi vị trụ trì: "Thầy vẽ cái gì đây?"
Thầy trụ trì đáp: "đang vẽ hình Cao tăng".
Bùi Hưu hỏi: "Hình có thể thấy, còn Cao tăng ở đâu? "
Thầy trụ trì không đáp được.
Tướng Bùi Hưu hỏi tiếp : " Trong đây có Thiền nhân chăng? "
Thầy trụ trì đáp: "Vừa có một vị Tăng vào chùa, thấy dáng vẻ giống như một Thiền giả".
Tướng Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Gặp ngài Hoàng Bá, Bùi Hưu trình bày "con vừa có một câu hỏi, thầy Trụ trì tiếc lời không đáp, xin ngài đáp cho".
Ngài Hoàng Bá bảo: "Mời Tướng công hỏi lại"
Tướng Bùi Hưu lặp lại câu hỏi trước. (Hình có thể thấy, còn Cao tăng ở đâu?)
Ngài Hoàng Bá liền gọi: "Bùi Hưu! "
Bùi Hưu: " Dạ! "
Ngài Hoàng Bá bảo: "Ở chỗ nào?"
Tướng Bùi Hưu ngay nơi đó tự ngộ như được hạt châu trên búi tóc, bèn cung thỉnh Sư Hoàng Bá vào phủ kính thờ làm thầy.
Sư phụ giải thích: Tướng Bùi Hưu ngộ qua tiếng “dạ” , tiếng "dạ" ấy khi nghe gọi là thốt ra liền, tiếng "dạ" không vọng tưởng, không điên đảo, không phàm-thánh, nhị biên, thị phị, có-không... đó là rõ biết hiện tiền, là tánh Phật, chân tâm thường trú, là viên Minh Châu có bên trong của tất cả vạn loài chúng sanh.
Một hôm Bùi Hưu hỏi: “thế nào là Phật”
TS Hoàng Bá đáp: “tức tâm là Phật”, “không tâm là đạo”.
Sư Phụ giải thích:ngay tâm này là Phật, tâm không phiền não nhiểm ô là tâm Phật. Không tâm là đạo, là tâm rỗng lặng như hư không, không có đối đãi, không có dấy khởi tà niệm, phiền não. Đạo là chỗ đến cuối cùng, đó là Phật tánh.
Bùi Hưu hỏi, tâm là Phật có cần phải tu lục độ không?
TS Hoàng Bá đáp: “ngộ tại tâm, không quan hệ đến tu lục độ”.
Sư phụ giải thích: Lục độ là pháp tu phương tiện. Bố thí đối trị lòng tham, nhẫn nhục đối trị sân tức...
Thiền, tịnh độ, mật tông cũng là phương tiện tu tập để nhận ra tâm mình là Phật.
Đức Phật giảng tất cả Pháp để giúp đối trị tất cả tâm.
Đời Đường Đại Trung, Sư an nhiên thị tịch. Vua ban sắc hiệu là Đoạn Tế Thiền Sư.
Trước khi viên tịch, Ngài Hoàng Bá để lại bài kệ rất thiết thực cho con đường tu:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bã thằng đầu tố nhất trường.
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Dịch nghĩa:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ tỏa mùi hương.
Bạch Sư Phụ, hôm nay SP ban cho bài pháp về TS Hoàng Bá, Ngài có cuộc đời tu và sự chứng đắc rất nhẹ nhàng, để lại cho chúng đệ tử dễ nương theo hành trì: “tức tâm là Phật, không tâm là đạo”, phải “đầu dây nắm chặt lập trường” thì sẽ đạt đạo.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ Tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).
Truyền Tâm Pháp Yếu:
về Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vận... Con đã học qua tác phẩm này từ trangnhaquangduc cũ,
nhưng hôm nay nghe lại chính Thầy giảng đã . ......Kính đa tạ và tri ân Thầy, HH
Đạo đâu chỉ con đường... còn là nơi đến rốt ráo !