Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I.

11/03/201104:02(Xem: 8881)
I.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI BỐN: CÁI GIẾNG THẦN

I.

Tôi trở lại Tích Lan sau nửa năm vắng mặt, để tiếp tục công việc Hội và cũng để trợ giúp công cuộc chấn hưng Phật giáo tại xứ này.

Ngày 29 tháng 8, có xảy ra một việc tại khu hoa viên của thành phố Galle, nay đã trở thành một diễn biến lịch sử. Sau buổi diễn thuyết của tôi hôm ấy, có một cuộc quyên góp để gây quỹ cho công việc hoằng truyền Phật giáo tại xứ này. Một người tên Cornelis Appu được ông Jayasekera, Chi hội trưởng Chi hội Thông thiên học tại Galle giới thiệu cho tôi. Người ấy đã góp số tiền nửa ru-pi, và xin lỗi về số tiền quá nhỏ vì ông ta bị bệnh tê liệt một cánh tay và một chân từ tám năm nay, không thể làm gì được để kiếm sống.

Khi tôi từ Bombay vừa đến Colombo, vị Sư trưởng Phật giáo có cho tôi biết rằng Giáo hội Gia Tô đã chuẩn bị mọi việc để sử dụng cái giếng trong nhà một giáo dân, gần thị trấn Kelanie, như một cái “giếng thần” để chữa bệnh cho dân chúng, theo kiểu giếng Đức Mẹ tại Lộ Đức (Lourdes). Có tin cho biết một người đã được chữa khỏi bệnh một cách mầu nhiệm, nhưng khi hỏi kỹ ra mới biết đó chỉ là một chuyện bịa đặt.

Tôi liền nói với vị Sư trưởng rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng cần lưu ý. Một khi sự gợi ý đó đã bắt đầu thấm nhuần vào tư tưởng người dân, thì nó sẽ trở thành một sự thôi miên tập thể. Không bao lâu sẽ có những trường hợp khỏi bệnh thật sự, và chừng đó những Phật tử kém hiểu biết và tin tưởng mù quáng sẽ bỏ đạo mình để hùa nhau theo đạo khác.

Vị Sư trưởng nói: “Tôi biết làm sao bây giờ?”

Tôi nói: “Đại đức phải ra tay hành động, hoặc phải có một vị sư danh tiếng nào khác hãy nhân danh Đức Phật để chữa bệnh cho mọi người.”

Sư trưởng đáp: “Nhưng chúng tôi không thể làm được; chúng tôi không biết gì về những việc đó.”

Tôi nói quả quyết: “Nhưng dù sao thì việc ấy vẫn phải được thực hiện.”

Khi người bệnh nói trên diễn tả căn bệnh bại liệt của ông ta, tôi cảm thấy trong thâm tâm có một cái gì hình như muốn nói với tôi: “Đây là cơ hội cho anh sử dụng cái giếng thần!”

Tôi đã khảo cứu về khoa nhân điện và chữa bệnh bằng nhân điện (Mesmérisme) trong ba mươi năm, nhưng chưa bao giờ thực tập, mà chỉ có làm vài cuộc thí nghiệm cần thiết lúc ban đầu. Nhưng bây giờ, do sự thúc đẩy của tình thương (vốn là cái động cơ căn bản cho việc chữa bệnh có kết quả), tôi đưa hai bàn tay truyền điện lên cánh tay bại liệt của người bệnh một vài lần, và nói với ông ta rằng tôi hy vọng ông sẽ cảm thấy khá hơn đôi chút. Kế đó, ông ta trở về nhà.

Chiều hôm đó, tôi đang ngồi nói chuyện với các bạn đạo tại nhà thì thấy người bệnh bại liệt ngày hôm qua, tay chống nạng, chân đi khập khiễng bước vào. Ông ta xin lỗi đã đến làm rộn, và nói rằng ông cảm thấy khá nhiều nên đến để cảm ơn tôi.

Tin lành bất ngờ này khích lệ tôi tiếp tục chữa bệnh cho ông ta. Sau độ một khắc đồng hồ truyền điện cho cánh tay bại liệt, tôi dặn ông ta hãy trở lại vào sáng hôm sau.

Tôi phải nói thêm rằng, không một ai ở Tích Lan biết tôi có quyền năng chữa bệnh, và có lẽ họ cũng không hề biết gì về quyền năng này. Như vậy không thể có giả thuyết được nêu ra về sự ám thị hay ảo giác tập thể trong trường hợp này.

Sáng hôm sau người kia lại đến và tỏ vẻ tôn sùng tôi như một siêu nhân vì y cảm thấy bớt hẳn. Tôi lại tiếp tục chữa cho y luôn ba ngày liên tiếp, và qua ngày thứ tư y đã có thể vung cánh tay bại liệt của y lên vòng quanh đầu, mở và khép bàn tay, và sử dụng bàn tay để làm các động tác thông thường một cách dễ dàng.

Trong vòng bốn ngày kế đó, ông ta đã có thể sử dụng bàn tay được chữa khỏi để ký tên vào một chứng thư kể rõ trường hợp của ông và cho công bố. Đó là lần đầu tiên ông ta có thể cầm đến một cây viết kể từ chín năm nay.

Tôi cũng đã chữa khỏi luôn cái chân bại liệt của ông ta, và độ một hai ngày sau, ông ta đã có thể nhảy với cả hai bàn chân, nhảy lò cò bằng cái chân bại liệt, đá lên vách với một chiều cao đồng đều nhau bằng cả hai chân, và chạy một cách tự do theo ý muốn.

Giống như rơm khô bắt lửa, tin ấy loan truyền rất nhanh khắp cả mọi nơi trong tỉnh. Cornelis đưa đến một người bạn bại liệt giống như ông ta, cũng được tôi chữa khỏi. Kế đó, những người khác đến. Lúc đầu còn đến từng nhóm nhỏ đôi ba người, kế đến hàng chục người, và trong vòng độ một tuần lễ sau, ngôi nhà tôi ở bị bệnh nhân vây phủ suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya, để nhờ tôi truyền điện chữa bệnh cho họ.

Sau cùng, họ trở nên quấy rầy, phiền nhiễu đến nỗi tôi cũng không còn biết phải làm sao để thoát khỏi vòng vây. Lẽ tất nhiên, với sự tăng gia đức tin nơi khả năng của mình, sức mạnh nhân điện của tôi tăng vọt lên gấp bội, và những chứng bệnh mà lúc đầu tôi phải mất đến nhiều ngày mới chữa khỏi, nay tôi có thể chữa trong vòng nửa tiếng đồng hồ.

Một điều bực bội, khó chịu nhất trong việc này là thái độ ích kỷ, thấp hèn của đám đông. Họ bao vây tôi trong buồng ngủ khi tôi còn chưa thay quần áo, theo sát tôi từng bước một, không cho tôi có thời giờ ăn cơm, và làm áp lực ráo riết đối với tôi, bất luận rằng tôi bị mệt mỏi và kiệt sức đến độ nào! Tôi chữa bệnh cho họ suốt bốn, năm giờ liên tiếp, cho đến khi tôi cảm thấy kiệt quệ, không còn chút sinh lực nào. Khi đó tôi mới nghỉ độ nửa giờ đi xuống biển để tắm nước mặn, và khi trở lên nhà, tôi lại cảm thấy tràn đầy sinh lực, thể xác được tăng cường. Tôi bèn tiếp tục công việc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn xế trưa, tôi đã mệt lả và phải yêu cầu bệnh nhân hãy trở về nhà.

Lúc ấy tôi ở trên tầng lầu thứ nhất của ngôi nhà trọ, nên phần nhiều những người bệnh nặng phải được thân nhân bạn bè khiêng lên lầu và đặt họ nằm dưới chân tôi. Có những người hoàn toàn bại liệt, với những tay chân co quắp làm cho họ có một hình thù dị dạng giống như những rễ cây có bướu trông rất dễ sợ. Sau một hay hai lần truyền điện, mỗi lần độ nửa giờ, tôi đã làm cho họ duỗi thẳng tay chân và đi đứng được như thường.

Tôi dùng cái hàng ba rộng lớn của ngôi nhà làm một sân vận động, chọn lấy hai ba người trong số những người bệnh nặng nhất vừa được chữa khỏi, và bắt họ chạy đua theo chiều dài hàng ba. Họ và những người đứng xem đều cười lớn về sự đùa giỡn khôi hài đó, và ngạc nhiên tự hỏi sao lạ vậy, nhưng tôi làm vậy là có mục đích truyền cho họ một đức tin nơi hiệu lực của phép chữa bệnh, giống như đức tin của tôi, để cho sự bình phục của họ được hoàn toàn chắc chắn.

Tôi cũng cảm thấy rất sung sướng khi có thể làm dịu bớt bao nhiêu nỗi khổ đau của nhân loại, và trong nhiều trường hợp, đã làm cho những phế nhân phục hồi lại được tất cả niềm vui của một sức khỏe lành mạnh và tất cả những khả năng hoạt động của một đời người.

Sự việc trên vẫn tiếp tục cho đến tận những vùng làng mạc xa xôi hẻo lánh trên lộ trình hoạt động của tôi ở miền Nam đảo Tích Lan. Tôi thường đến mỗi thị trấn hay làng xã bằng xe ngựa hay xe bò, và thấy bệnh nhân rải rác nằm ngồi đợi tôi trên các hàng ba, bãi cỏ, và trong đủ mọi loại xe cộ, hoặc kiệu khiêng bằng tay, đến từ các vùng lân cận.

Baddegama là một trung tâm nổi tiếng về những hoạt động truyền giáo, và cũng về sự thù nghịch đối với Phật giáo nói chung. Có những tin tức hăm dọa rằng các nhà truyền giáo sẽ tấn công tôi trong buổi diễn thuyết tại đây, và lẽ tự nhiên các Phật tử sẽ tề tựu đông đảo để nghe tôi nói chuyện. Nhiều hội viên Thông thiên học cũng từ Galle đến dự thính, và trong đám đông, tôi nhìn thấy Cornelis Appu. Ông ta đã đi bộ suốt hai mươi cây số đường trường để đến đây. Thế là không còn nghi ngờ gì về việc ông ta đã được hoàn toàn chữa khỏi bệnh bại liệt!

Một trường hợp lý thú đã đến với tôi ở một tiểu ấp tên Agalya. Một bà lão bảy mươi hai tuổi bị một con trâu cái đá khi bà đang vắt sữa độ vài năm trước đây; bà bị vẹo xương sống, không thể đứng thẳng người và đi phải chống gậy. Bà bất giác cười lớn một cách dòn dã khi tôi nói rằng không bao lâu tôi sẽ làm cho bà nhảy múa được. Nhưng chỉ sau có mười phút truyền điện dọc theo xương sống và tay chân, bà đã cảm thấy bình phục sức khỏe. Tôi bèn nắm tay bà, quăng bỏ cây gậy chống và bảo bà cùng chạy với tôi trên sân cỏ. Bà đã chạy được như thường!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/05/2015(Xem: 5747)
Ở miền nam Việt Nam trước năm 1975, tôi không biết nhiều về con người và đất nước Ấn Độ. Hình ảnh đáng nhớ về người Ấn là dù thời tiết Sài Gòn nóng và nhiều nắng nhưng trên người họ lại khoác quá nhiều vải, quấn kín cả người, màu sắc rực rỡ đến chói mắt. Còn trang trí thì khỏi nói, bởi họ mang vàng đầy người. Nhưng ngoài áo quần và kim hoàn, người Ấn còn nổi bật trong thế giới người Á Châu da vàng bởi nước da nâu sậm, quá đậm đà nhiều người gọi là da đen.
18/05/2015(Xem: 3890)
Đã bước qua Cổng Chính và đã thấy “vườn địa đàng trên trái đất” mà vua Shah Jahal thực hiện khi xây ngôi mộ cho hoàng hậu Mumtaz Mahal, mời bạn tiếp tục hành trình thăm viếng. Một hồ nước nhân tạo hàng trăm mét chạy dài từ cổng tới lăng, hai bên hồ là những bãi cỏ với hàng cây trắc bá thẳng tắp. Mời bạn đi trên con đường lót gạch ở hai bên hàng cây dành cho người đi bộ, ngắm vườn cỏ trải dài tới các bờ tường thành và chiếm hơn một phần tư diện tích của khu phức hợp Taj Mahal, nơi đây những cây cảnh được cắt tỉa xen lẫn cây có tàn lá rộng trong đó có những cây phượng đang trổ hoa đỏ giữa mùa hè. Cảnh vật trong vườn là một sự hài hòa cân xứng với hồ nhân tạo nằm ở giữa.
16/05/2015(Xem: 3586)
Máy bay từ Kathmandu đáp xuống phi trường quốc tế Indira Gandhi ở thủ đô New Delhi (Tân Đề Li) khoảng 5 giờ chiều sau chuyến bay dài chừng 1 tiếng rưỡi. Khí hậu đã thay đổi rõ rệt như trên Đà Lạt xuống Sài Gòn. Bạn đang từ vùng nhiệt độ dưới 30 lên quá 40 độ. Sự khác biệt giữa hai nước còn rõ vì bạn đang từ một phi trường “đèo heo gió hút” tới một nơi nhộn nhịp như New Delhi. Trời nóng nực nên chúng tôi chỉ muốn làm sao về khách sạn thật nhanh. Một khách đồng hành người Ấn nói với chúng tôi cứ việc ra bên ngoài hỏi quầy taxi trả tiền trước (prepaid).
27/04/2015(Xem: 9946)
Thư Mời Tham Dự Khóa Tu Mùa Hè tại San Jose, California
26/03/2015(Xem: 9607)
Hình ảnh Phái Đoàn hành hương Nhật Bản từ ngày 21 tháng 3 đến ngày 8 tháng 4 năm 2015 do TT Thích Hạnh Nguyện tổ chức và HT Phương Trượng Thích Như Điển hướng dẫn
08/02/2015(Xem: 8267)
Bhutan là quốc gia nằm ở Nam Á, giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Đất nước này được biết đến là quốc gia có diện tích bé nhỏ nhưng người dân lại có cuộc sống hạnh phúc. Và đây là 10 lý do vì sao họ cảm thấy hạnh phúc.
28/01/2015(Xem: 5830)
- Trong kinh, Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, sau khi ta diệt độ, tất cả Thiện nam, Tín nữ, người mà có lòng tin nơi Phật pháp nên đi đến 4 nơi linh thiêng và ghi nhớ rằng đây là Lumbini, nơi Ta Đản sanh, đây là Bodhgaya nơi Ta Thành đạo, đây là Sarnath nơi Ta Chuyển Pháp luân và đây là Kushinagar nơi Ta nhập Niết bàn.”. - Trước khi lên đường chiêm bái Phật tích, tôi tập hợp sách của nhà nghiên cứu, giới xuất gia, cư sĩ, nhà báo…, viết về những Thánh tích Phật giáo ở Ấn Độ và Nepal; nhưng rồi tôi quyết định không đọc. Tôi muốn cảm thụ Phật tích với góc nhìn và cảm xúc của một hài nhi. - Bài này tôi viết cho những người trẻ chưa quy y Tam Bảo và những doanh nhân hiểu về Phật Pháp sơ khai như tôi. Thông qua bài viết này, tôi còn có mong muốn giới thiệu với độc giả sự tương kính, tương thân, tương ái, tương trợ, của từng thành viên trong đoàn với nhau, với xứ Phật và Đức Phật.
21/01/2015(Xem: 5702)
Chưa bao giờ tôi thấy câu “Muốn một đằng lại ra một nẻo“ chính xác như lần đi hành hương với Thầy Hạnh Giới, Trụ trì chùa Viên Giác tại Hannover từ ngày mùng 1 tháng 9 đến 19 tháng 9 năm 2014. Lần này Thầy trò chúng tôi muốn vãn cảnh những ngôi chùa thơ mộng trên sườn núi vào mùa thu ở Đại Hàn một tuần, rồi sau đó sẽ dồn hết tiền tài và sức lực để chiêm bái “Tứ Đại Danh Sơn“ của 4 vị Đại Bồ Tát lừng danh kim cổ ở Trung Quốc. Cứ nghĩ đến cảnh được lạy ngài Bồ Tát Quán Âm ngay tại chân núi Phổ Đà là chúng tôi đã ghi tên ầm ầm lên đến trên 8 chục người rồi.
11/12/2014(Xem: 5151)
Ấn Độ là chiếc nôi minh triết và cũng là quê hương của Phật giáo. Từ ngàn xưa đã xuất hiện nhiều bậc vĩ nhân, thắp lên ánh sáng phương Đông, chiếu rực trên vòm trời tư tưởng tâm linh và học thuật sâu thẳm nhất của loài người. Thật vậy, tại đất nuớc này, vào thế kỷ thứ bảy (624) trước Tây lịch (TL), Đức Thích-ca Mâu-ni ra đời vì lợi ích và an lạc cho đa số, trong đó có chư thiên và loài người mà ngài nỗ lực tu hành chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
26/09/2014(Xem: 6941)
20/3/2015: Khởi hành từ Đức/Mỹ/Úc. Đáp máy bay đi Osaka, Kansai International Airport.. 21/3/2015: Đến Osaka và xe đưa về khách sạn. Ngoạn cảnh thành phố Osaka. Khởi hành đi Hiroshima, nơi xưa kia bị Hoa Kỳ dội bom nguyên tử. Viếng thăm chùa và ngài Địa Tạng không đầu ở vùng Fuchu và cầu nguyện. Trở về lại Hiroshima và nghỉ lại khách sạn. 22/3/2015: Khởi hành đi Hyogo. Nghỉ lại khách sạn. Chiêm bái Vương đường Phật giáo. Một tự viện hiện đại với những công trình kỷ lục: Chánh điện trang nghiêm trang trí 10.450 hoa văn gỗ chạm khắc và 320.000 hoa văn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567