Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II.

11/03/201104:02(Xem: 8945)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG MƯỜI MỘT: THỊ TRẤN SIMLA

II.

Ngày 29 tháng 9, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi cùng đi dạo chơi trên đỉnh một ngọn đồi ở vùng chung quanh. Trên nóc lợp ngói của một ngôi miếu nhỏ của Ấn giáo tại đó, giữa vô số những chữ khắc tên họ của du khách bốn phương đến viếng, tôi nhận thấy có một chữ khắc ám hiệu của Chân Sư M. với tên tôi ở dưới, nhưng do đâu mà có chữ đó thì tôi cũng không biết.

Khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, bà Blavatsky nhân lúc cao hứng, mới hỏi chúng tôi có ai mơ ước điều gì không? Bà Sinnett nói: “Tôi muốn có một thông điệp của chân sư rơi xuống ngay chỗ tôi ngồi.”

Bà Blavatsky bèn lấy từ trong quyển sổ tay bỏ túi của bà một tờ giấy màu hồng, dùng ngón tay vẽ lên đó vài phù hiệu bí mật, xếp tờ giấy thành hình ba góc, cầm nó trong tay đi xuống sườn đồi cách đó độ hai mươi thước, day mặt về hướng tây, đưa tay vẽ một đạo bùa trên không gian, xòe cả hai bàn tay ra, và tờ giấy kia liền biến mất. Thay vì nhận được thư trả lời rơi xuống chỗ bà đang ngồi, bà Sinnett nhận thư bằng cách trèo lên một cái cây ở gần bên. Thông điệp ấy được viết trên tờ giấy màu hồng lúc nãy, cũng xếp thành hình ba góc, và mắc vào một nhánh nhỏ trên cây. Trên tờ giấy có chữ viết do một bàn tay lạ, để trả lời một câu hỏi riêng tư của bà Sinnett, và do chân sư K. H. ký tên bằng chữ Tây Tạng.

Bây giờ tôi xin kể một chuyện khác. Một nhóm chúng tôi gồm sáu người, ba người nam và ba người nữ, sửa soạn từ nhà ra đi trong một cuộc du ngoạn dưới một thung lũng cách xa thành phố. Người quản gia của gia đình Sinnett đã sắp đặt các giỏ mây đựng đồ vật thực, và đã gói vào trong giỏ sáu bộ chén dĩa kiểu lạ để dùng trà. Khi chúng tôi sắp sửa ra đi thì một người khách đến thình lình, và cũng được mời cùng đi với chúng tôi. Những người giúp việc đã xách các giỏ mây đi trước, còn chúng tôi từ từ đi sau theo hàng một, trên con đường mòn gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống thung lũng. Sau một chuyến đi bộ dạo chơi thong thả, chúng tôi đến một chỗ bằng phẳng trên sườn một dãy đồi cỏ cây sầm uất, với những cây cổ thụ to lớn có tàn cây che mát rượi.

Chúng tôi bèn cắm trại ở đây, và nằm ngồi rải rác trên bãi cỏ xanh, trong khi những người giúp việc dọn chỗ trên bãi cỏ và bày đồ vật thực. Họ vừa nhóm lửa nấu nước pha trà, thì thấy người quản gia vẻ mặt băn khoăn bước đến gần bà Sinnett và thưa với bà rằng còn thiếu một bộ chén dĩa cho ông khách mới đến vào phút chót. Bà nói với một giọng bực mình:

– Anh thật là lơ đễnh, sao không nhớ đem thêm một bộ chén dĩa nữa khi anh biết rằng ông khách ấy cũng sẽ dùng trà như mọi người?

Kế đó bà quay lại với chúng tôi và vừa nói vừa cười:

– Hình như trong các bạn chắc phải có hai người uống chung một cốc.

Lúc ấy tôi mới nói rằng, trước đây trong một trường hợp tương tự, chúng tôi đã giải quyết vấn đề bằng cách đưa cái chén cho một người và cái dĩa cho người kia. Đến đây, một người trong nhóm mới nói đùa với bà Blavatsky:

– Bây giờ, thưa bà, đây là một cơ hội để cho bà thực hiện phép mầu.

Tất cả chúng tôi bất giác cười lớn vì câu nói đùa bỡn vô lý đó, nhưng khi thấy bà Blavatsky có vẻ sẵn lòng chấp nhận thì mọi người đều hoan hô thích thú, và yêu cầu bà làm ngay lập tức. Những người nằm trên bãi cỏ cũng đã đứng dậy và tề tựu chung quanh. Bà Blavatsky nói rằng để làm cái việc này, bà cần có sự trợ giúp của Thiếu tá X., một bạn hữu của chúng tôi cũng đang có mặt lúc ấy.

Ông này tỏ vẻ bằng lòng. Bà yêu cầu ông đemtheo một đồ dụng cụ để đào đất; ông ta bèn chụp lấy con dao lớn đựng trong giỏ và đi theo bà. Bà Blavatsky nhìn chăm chú trên mặt đất, đưa mặt chiếc nhẫn lớn của bà đeo, chiếu xuống chỗ nọ chỗ kia, và sau cùng bà nói: “Ông hãy đào ở chỗ này.”

Ông khách ra tay đào xới, và nhận thấy rằng phía dưới lớp cỏ xanh che phủ mặt đất là một hệ thống chằng chịt những rễ cây của những cây lớn nhỏ ở gần bên. Ông ta cắt những đám rễ và lôi ra từng nắm, kéo đất rời qua một bên, và đụng phải một vật màu trắng. Thì ra đó là một cái chén sứ uống trà nằm trong lòng đất, và khi ông ta lấy cái chén ra thì thấy nó thuộc cùng một kiểu giống y như sáu cái chén kia.

Hãy tưởng tượng những tiếng kêu ngạc nhiên và xúc động của nhóm người đứng xem chung quanh! Bà Blavatsky bảo ông kia hãy tiếp tục đào nữa ở chỗ ấy, và sau khi ông này đã cắt bỏ và kéo ra một rễ cây lớn bằng ngón tay út của tôi, ông ta lôi ra một cái dĩa cũng cùng một kiểu với những bộ chén dĩa khác. Điều này làm cho cả bọn xúc động đến cực điểm, và ông khách sử dụng con dao lại là người kêu to ầm ĩ nhất vì ngạc nhiên và khoái trá.

Khi cuộc đi chơi kết thúc và chúng tôi trở về nhà, bà Sinnett và tôi cùng đi thẳng đến cái tủ đựng chén để kiểm điểm lại, thì thấy bốn bộ chén dĩa uống trà bỏ sót lại ở nhà vẫn còn nguyên, cùng với sáu bộ đem theo là tất cả mười bộ. Thế là bộ thứ bảy do bà Blavatsky tạo thêm trong cuộc đi chơi, không phải ở trong số mười bộ chén của bà Sinnett.

Nếu có kẻ hoài nghi đưa ra giả thuyết rằng bộ chén sau cùng này có thể đã được chôn dấu từ trước để lòe bịp chúng tôi, thì sự thật hiển nhiên đã đính chính ngay điều ấy. Mọi người có mặt đều nhìn thấy rõ rằng bộ chén dĩa ấy nằm gọn trong lòng đất y như những mảnh đá vụn, giữa những rễ cây mọc dọc ngang chằng chịt như mạng lưới, phải dùng sức mạnh và dao bén để chặt đứt và bứng ra một cách mạnh mẽ mới lôi bộ chén dĩa kia ra được. Lớp cỏ trên mặt đất ở chỗ ấy vẫn xanh tươi và không có dấu hiệu gì khả nghi, và nếu có ai đã đào đất lên để chôn bộ chén dĩa từ trước, thì mặt đất bị đào xới đã không thể nào thoát khỏi cái nhìn nhận xét tinh vi của toàn thể quan khách đứng vây chung quanh trong khi ông thiếu tá ra tay làm việc.

Sau buổi ăn trưa, bà Blavatsky còn làm một phép mầu khác, nó làm tôi ngạc nhiên hơn cả. Một trong những vị khách nói rằng ông ta sẵn lòng gia nhập Hội Thông thiên học nếu bà Blavatsky có thể làm ngay tại chỗ cho ông ta một chứng chỉ Hội viên đã hoàn tất mọi thủ tục. Đó hẳn là một yêu cầu quá đáng, nhưng bà bạn tôi không hề e ngại, đưa tay khoát một cái trên không trung, và chỉ vào một bụi rậm cách đó một khoảng ngắn, bà bảo người kia hãy đến đó xem có gì không, vì cây và bụi rậm thường được dùng làm các trạm phát thư tín. Người khách kia vừa cười vừa đi đến chỗ bụi rậm, dường như không tin tưởng lắm về kết quả mong ước. Nhưng khi đến nơi, ông ta rút ra từ trong bụi rậm một chứng chỉ hội viên bằng chữ in có ghi tên họ của ông và ngày tháng hôm đó, với một bức thư chính thức của vị Hội trưởng, mà tôi biết chắc rằng tôi không hề viết, nhưng lại viết bằng chính tuồng chữ của tôi!

Điều này làm cho tất cả mọi người đều hoan hô vui vẻ, và vì bà Blavatsky đang nhân lúc cao hứng, nên dường như không một phép lạ nào khác mà bà không làm cho chúng tôi xem. Những màn biểu diễn phương thuật của bà Blavatsky đã có kết quả là làm cho nhiều nhân vật người Âu có thế lực đã gia nhập Hội Thông thiên học, và biểu lộ một lòng ưu ái đầy thiện cảm đối với bà bạn của tôi.

Ngày 7 tháng 10, tôi thuyết trình về đề tài: “Thần linh học và Thông thiên học” tại hội trường của Viện Phụng sự hợp nhất (United Service Institution). Tôi được cho biết rằng số thính giả hôm ấy gồm một cử tọa đông đảo nhất chưa từng thấy tại Simla.

Tối hôm đó tôi được mời tham dự buổi dạ tiệc tiếp tân của vị Phó vương Anh là Lord Ripon tại Dinh Chính phủ và được nhiều bạn hữu đến chúc mừng, khen tặng tôi về buổi diễn thuyết và về những mối giao tế được cải thiện tốt đẹp với Chính phủ Anh Ấn.

Hằng ngày chúng tôi đều bận rộn tiếp khách. Bà Blavatsky vẫn tiếp tục thực hiện các hiện tượng huyền bí đến mức làm cho một nửa dân số Simla tin rằng bà được sự “trợ giúp của Quỷ vương (Satan)”. Một viên sĩ quan Anh trong nhóm quan khách cũng đã không ngần ngại mà nói thẳng với bà như vậy.

Chiều hôm đó, ông Hume đưa cho bà bức thư đầu tiên để nhờ bà chuyển đạt lên chân sư K. H. Đó là bước khởi đầu một cuộc trao đổi thư từ vô cùng thú vị giữa ông với chân sư, thỉnh thoảng vẫn được mọi người nhắc đến.

Những ngày cuối cùng của chúng tôi ở Simla vẫn còn tiếp nối những buổi dạ tiệc tiếp tân và những cuộc đi du ngoạn ngoài thành phố. Trong những dịp đó một vài màn biểu diễn phép thuật của bà Blavatsky đã làm cho các quan khách thích thú đến cực điểm.

Ngày hôm đó, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi đang ngồi đợi ông Sinnett tại phòng khách. Các bà ngồi chung với nhau trên chiếc đi-văng. Bà Sinnett cầm tay bà Blavatsky để ngắm nhìn đến lần thứ hai mươi và trầm trồ khen ngợi một chiếc nhẫn kim cương màu vàng rất đẹp, vốn là món quà tặng của bà Wijeratne, vợ một nhà thầu giàu có ở tỉnh Galle trong dịp viếng thăm của chúng tôi đến Tích Lan trong năm ấy. Đó là một hạt kim cương loại rất hiếm và quý giá, long lanh chớp sáng và chiếu ra những tia sáng chói lấp lánh.

Bà Sinnett đã có lần yêu cầu bà Blavatsky dùng phép thuật tạo thêm cho bà một bản sao của hạt kim cương ấy, nhưng bà này không hứa gì cả. Tuy nhiên, lần này bà chịu làm. Bà Blavatsky dùng hai ngón của bàn tay kia xoa lên hạt đá quý độ một lúc, kế đó bà ngừng tay và để lộ chiếc nhẫn đeo trên bàn tay bên này. Nằm sánh đôi với hạt kim cương của bà đeo, giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón tay bên cạnh là một hạt kim cương khác cũng màu vàng, tuy không chói sáng bằng hạt của bà, nhưng cũng là một hạt kim cương rất đẹp. Bà liền tặng hạt kim cương ấy cho bà Sinnett. Cho đến bây giờ, món bảo vật ấy vẫn còn là sở hữu của bà bạn quí mến của chúng tôi.

Buổi cơm tối hôm đó, bà Blavatsky không ăn gì cả, nhưng trong khi mọi người đang dùng bữa thì bà ngồi sưởi ấm hai bàn tay trên dĩa bàn đựng nước nóng đặt trước mặt bà. Độ một lát, bà xoa hai bàn tay và chà xát thật mạnh thì thấy có hai hạt ngọc bích nhỏ rơi xuống dĩa.

Hiện tượng làm cho xuất hiện các loại đá quý này cũng rất thường xảy ra với Stainton Moses, người bạn Anh mà chúng tôi có đề cập tới trong quyển hồi ký trước đây. Đôi khi, các loại đá quý nhỏ rơi xuống như mưa trên người ông ta và rơi khắp phòng, có khi là vài viên ngọc thạch lớn. Người Đông phương nói rằng đó là do tác động của những tinh linh của loài khoáng thạch, thuộc loại mà người Tây phương gọi là Thổ tinh (Gnomes), hay tinh linh của các hầm mỏ, và thổ ngữ Tamoul Ấn Độ gọi là Kalladimanden.

Ông Sinnett có ghi chép lại một việc xảy ra ngày 20 tháng 10 mà ông gọi là “hiện tượng cái gối”. Hôm ấy chúng tôi đi du ngoạn và cắm trại trên một ngọn đồi. Ông Sinnett đang trông đợi một thông điệp trả lời bức thư ông gửi cho một vị chân sư, nhưng ông không nghĩ rằng ông sẽ nhận được trong chuyến đi dạo chơi hôm đó. Tuy nhiên, một người trong nhóm đề nghị với bà Blavatsky làm xuất hiện một vật gì đó bằng phép mầu.

Bà Blavatsky hỏi: “Các ông muốn nhận được vậy ấy ở đâu khác ngoài trên một cành cây? Không nên làm cho sự việc trở thành nhàm chán vì cứ lặp lại những chuyện cũ.”

Mọi người thăm dò ý kiến lẫn nhau, và sau cùng họ đồng ý yêu cầu bà làm cho vật ấy xuất hiện bên trong cái gối dựa lưng của bà Sinnett đang dùng ở trên chiếc ghế bành của bà lúc ấy.

Bà Blavatsky liền nói: “Được rồi, hãy mở nó ra xem có vật gì ở trong không.”

Ông Sinnett liền lấy con dao bỏ túi của ông và rọc cái gối. Cái áo gối ở ngoài mặt có thêu hoa, được lót bằng da hay một thứ vải cứng và may bằng thứ chỉ lớn, dày và rất chắc. Đó là một cái gối kiểu xưa, và đường chỉ đã trở nên cứng chặt với thời gian, làm cho công việc cắt rạch nó ra hơi có phần khó nhọc. Tuy nhiên, sau cùng thì cái bao ngoài đã bị rách đứt, và bên trong là một cái bao thứ nhì chứa đựng lông chim và cũng được may bằng một thứ chỉ rất chắc.

Khi cái gối trong đã bị cắt ra xong, ông Sinnett mới thọc tay vào, mò trong đống lông chim, và lấy ra một bức thư với cái trâm cài đầu. Đó là bức thư của chân sư K. H. đề cập đến một câu chuyện giữa ông Sinnett với bà Blavatsky; còn cái trâm cài đầu là của bà Sinnett, và ngay trước khi xuất hành bà còn để nó lại trên mặt bàn phấn của bà. Tôi muốn để cho độc giả hãy tự rút lấy kết luận của những sự việc kể trên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/05/2015(Xem: 5751)
Ở miền nam Việt Nam trước năm 1975, tôi không biết nhiều về con người và đất nước Ấn Độ. Hình ảnh đáng nhớ về người Ấn là dù thời tiết Sài Gòn nóng và nhiều nắng nhưng trên người họ lại khoác quá nhiều vải, quấn kín cả người, màu sắc rực rỡ đến chói mắt. Còn trang trí thì khỏi nói, bởi họ mang vàng đầy người. Nhưng ngoài áo quần và kim hoàn, người Ấn còn nổi bật trong thế giới người Á Châu da vàng bởi nước da nâu sậm, quá đậm đà nhiều người gọi là da đen.
18/05/2015(Xem: 3895)
Đã bước qua Cổng Chính và đã thấy “vườn địa đàng trên trái đất” mà vua Shah Jahal thực hiện khi xây ngôi mộ cho hoàng hậu Mumtaz Mahal, mời bạn tiếp tục hành trình thăm viếng. Một hồ nước nhân tạo hàng trăm mét chạy dài từ cổng tới lăng, hai bên hồ là những bãi cỏ với hàng cây trắc bá thẳng tắp. Mời bạn đi trên con đường lót gạch ở hai bên hàng cây dành cho người đi bộ, ngắm vườn cỏ trải dài tới các bờ tường thành và chiếm hơn một phần tư diện tích của khu phức hợp Taj Mahal, nơi đây những cây cảnh được cắt tỉa xen lẫn cây có tàn lá rộng trong đó có những cây phượng đang trổ hoa đỏ giữa mùa hè. Cảnh vật trong vườn là một sự hài hòa cân xứng với hồ nhân tạo nằm ở giữa.
16/05/2015(Xem: 3605)
Máy bay từ Kathmandu đáp xuống phi trường quốc tế Indira Gandhi ở thủ đô New Delhi (Tân Đề Li) khoảng 5 giờ chiều sau chuyến bay dài chừng 1 tiếng rưỡi. Khí hậu đã thay đổi rõ rệt như trên Đà Lạt xuống Sài Gòn. Bạn đang từ vùng nhiệt độ dưới 30 lên quá 40 độ. Sự khác biệt giữa hai nước còn rõ vì bạn đang từ một phi trường “đèo heo gió hút” tới một nơi nhộn nhịp như New Delhi. Trời nóng nực nên chúng tôi chỉ muốn làm sao về khách sạn thật nhanh. Một khách đồng hành người Ấn nói với chúng tôi cứ việc ra bên ngoài hỏi quầy taxi trả tiền trước (prepaid).
27/04/2015(Xem: 9955)
Thư Mời Tham Dự Khóa Tu Mùa Hè tại San Jose, California
26/03/2015(Xem: 9619)
Hình ảnh Phái Đoàn hành hương Nhật Bản từ ngày 21 tháng 3 đến ngày 8 tháng 4 năm 2015 do TT Thích Hạnh Nguyện tổ chức và HT Phương Trượng Thích Như Điển hướng dẫn
08/02/2015(Xem: 8273)
Bhutan là quốc gia nằm ở Nam Á, giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Đất nước này được biết đến là quốc gia có diện tích bé nhỏ nhưng người dân lại có cuộc sống hạnh phúc. Và đây là 10 lý do vì sao họ cảm thấy hạnh phúc.
28/01/2015(Xem: 5863)
- Trong kinh, Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, sau khi ta diệt độ, tất cả Thiện nam, Tín nữ, người mà có lòng tin nơi Phật pháp nên đi đến 4 nơi linh thiêng và ghi nhớ rằng đây là Lumbini, nơi Ta Đản sanh, đây là Bodhgaya nơi Ta Thành đạo, đây là Sarnath nơi Ta Chuyển Pháp luân và đây là Kushinagar nơi Ta nhập Niết bàn.”. - Trước khi lên đường chiêm bái Phật tích, tôi tập hợp sách của nhà nghiên cứu, giới xuất gia, cư sĩ, nhà báo…, viết về những Thánh tích Phật giáo ở Ấn Độ và Nepal; nhưng rồi tôi quyết định không đọc. Tôi muốn cảm thụ Phật tích với góc nhìn và cảm xúc của một hài nhi. - Bài này tôi viết cho những người trẻ chưa quy y Tam Bảo và những doanh nhân hiểu về Phật Pháp sơ khai như tôi. Thông qua bài viết này, tôi còn có mong muốn giới thiệu với độc giả sự tương kính, tương thân, tương ái, tương trợ, của từng thành viên trong đoàn với nhau, với xứ Phật và Đức Phật.
21/01/2015(Xem: 5706)
Chưa bao giờ tôi thấy câu “Muốn một đằng lại ra một nẻo“ chính xác như lần đi hành hương với Thầy Hạnh Giới, Trụ trì chùa Viên Giác tại Hannover từ ngày mùng 1 tháng 9 đến 19 tháng 9 năm 2014. Lần này Thầy trò chúng tôi muốn vãn cảnh những ngôi chùa thơ mộng trên sườn núi vào mùa thu ở Đại Hàn một tuần, rồi sau đó sẽ dồn hết tiền tài và sức lực để chiêm bái “Tứ Đại Danh Sơn“ của 4 vị Đại Bồ Tát lừng danh kim cổ ở Trung Quốc. Cứ nghĩ đến cảnh được lạy ngài Bồ Tát Quán Âm ngay tại chân núi Phổ Đà là chúng tôi đã ghi tên ầm ầm lên đến trên 8 chục người rồi.
11/12/2014(Xem: 5153)
Ấn Độ là chiếc nôi minh triết và cũng là quê hương của Phật giáo. Từ ngàn xưa đã xuất hiện nhiều bậc vĩ nhân, thắp lên ánh sáng phương Đông, chiếu rực trên vòm trời tư tưởng tâm linh và học thuật sâu thẳm nhất của loài người. Thật vậy, tại đất nuớc này, vào thế kỷ thứ bảy (624) trước Tây lịch (TL), Đức Thích-ca Mâu-ni ra đời vì lợi ích và an lạc cho đa số, trong đó có chư thiên và loài người mà ngài nỗ lực tu hành chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
26/09/2014(Xem: 6950)
20/3/2015: Khởi hành từ Đức/Mỹ/Úc. Đáp máy bay đi Osaka, Kansai International Airport.. 21/3/2015: Đến Osaka và xe đưa về khách sạn. Ngoạn cảnh thành phố Osaka. Khởi hành đi Hiroshima, nơi xưa kia bị Hoa Kỳ dội bom nguyên tử. Viếng thăm chùa và ngài Địa Tạng không đầu ở vùng Fuchu và cầu nguyện. Trở về lại Hiroshima và nghỉ lại khách sạn. 22/3/2015: Khởi hành đi Hyogo. Nghỉ lại khách sạn. Chiêm bái Vương đường Phật giáo. Một tự viện hiện đại với những công trình kỷ lục: Chánh điện trang nghiêm trang trí 10.450 hoa văn gỗ chạm khắc và 320.000 hoa văn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567