Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

I.

11/03/201104:02(Xem: 9023)
I.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG NĂM: VIẾNG ĐỘNG KARLI

I.

Đó là một đêm trăng sáng. Chúng tôi ba người cùng ngồi thưởng trăng trên sân cỏ trước nhà cho đến khuya, và bàn kế hoạch du ngoạn hang động Karli vào ngày hôm sau.

Tối hôm đó, bà Blavatsky ngồi nhập định trong một lúc, và sau đó khi xả thiền bà nói với tôi rằng đúng năm giờ chiều mai, sẽ có một vị tăng lữ Bà-la-môn đến gặp chúng tôi trong hang.

Bốn giờ sáng hôm sau, Baburao, người thừa sai của chân sư, rón rén bước vào phòng ngủ của tôi và Mulji, sẽ đánh thức tôi dậy, nhét vào tay tôi một cái hộp sơn mài nhỏ, hình tròn, đựng một miếng trầu có têm vôi và gia vị gói ở trong, như người ta thường gói sẵn cho gọn để mời khách, và nói nhỏ vào tai tôi thánh danh của vị chân sư bảo trợ chúng tôi trong cuộc đi chơi này. Ý nghĩa món quà này là: trong tổ chức Huyền môn của chúng tôi, đó là dấu hiệu thâu nhận đệ tử mới. Chúng tôi thức dậy, đi tắm, dùng cà phê sáng xong, đúng năm giờ lên xe bò đi Karli và đến nơi vào lúc mười giờ.

Vào giờ này, mặt trời đã lên cao, chúng tôi phải đi lên dốc một cách vất vả, khó nhọc trên con đường mòn từ dưới chân đồi dẫn lên các hang động trên núi. Bà Blavatsky có vẻ mệt lử và hơi thở hổn hển như sắp dứt, đến nỗi vài người phu phải đem lại một chiếc ghế bành và kiệu bà đi trên đoạn đường dốc cuối cùng.

Tôi không cần phải miêu tả ở đây ngôi đền vĩ đại khoét trong hang núi và những xà lim nhỏ vuông vức đục trong vách đá dùng làm chỗ ngủ của các tu sĩ khổ hạnh thời xưa. Toàn bộ kiến trúc gây cho du khách một cảm giác bàng hoàng kinh ngạc về tính cách hùng vĩ của công trình mỹ thuật độc đáo vô song này.

Mọi cuốn du lịch chỉ nam đều có mô tả hang động Karli với đầy đủ chi tiết. Mệt mỏi sau cuộc leo núi dưới ánh mặt trời nóng bức, chúng tôi bước vào trong hang lớn, trải nệm và cắm trại luôn trên nền đá. Kế đó chúng tôi ăn trưa và đàm đạo với nhau về vấn đề thịnh vượng và suy vong của nền minh triết cổ truyền (Brahma Vidya) của Ấn Độ, và những triển vọng phục sinh của nó trong tương lai.

Cuộc đàm thoại về những vấn đề cao siêu đó làm tiêu hao thời gian cho đến khi tôi nhìn đồng hồ thì thấy chỉ còn có sáu phút nữa là đúng năm giờ chiều. Thế là bạn Mulji và tôi để bà Blavatsky ở lại đó rồi cùng đi ra chòi canh ở ngoài cửa hang để ngồi đợi. Không có một tăng lữ khổ hạnh nào xuất hiện, nhưng sau độ mười phút thì thấy có một người tu sĩ đẩy tới trước một con bò cái có tật với một cái chân thứ năm ngắn ngủi mọc ra từ cái gù trên lưng. Có một người nô bộc đi theo ông ta .

Người tu sĩ có một gương mặt dịu dàng, khôi ngô, dễ mến. Ông ta có một đầu tóc đen dợn sóng và xõa xuống tận vai. Một bộ râu rậm chẻ hai ở dưới cằm theo kiểu dân Rajput, đuôi râu vắt lên hai bên mép tai và xoắn lại với tóc trên đầu. Ông mặc bộ áo vàng của người tu sĩ xuất gia, trên vầng trán rộng biểu lộ sự thông minh có bôi tro xám biểu hiệu chi phái thờ thần Shiva.

Chúng tôi để ý dò xét xem ông ta có nhận ra chúng tôi không, nhưng thấy là không. Sau cùng chúng tôi mới lên tiếng để bắt chuyện với ông ta. Ông ta nói rằng ngày hôm qua trong khi ông đang trên lộ trình hành hương ở Hardwar thì sư phụ ông dạy rằng hãy đến đây ngày hôm nay, lúc năm giờ chiều, vì có những người mà ông cần gặp gỡ. Ngoài ra, ông không được dặn dò gì thêm.

Nếu chúng tôi trông đợi ông ta, thì chúng tôi hẳn là những người mà sư phụ ông ta muốn nói đến, nhưng ông ta lại không mang đến một lời nhắn nào cho chúng tôi, hoặc ít nhất chúng tôi cũng chưa biết được điều đó.

Sư phụ ông ta không đích thân nói chuyện với ông, mà ông nghe được lời dạy của ngài qua một giọng nói dường như thì thầm bên tai. Điều này chúng tôi biết được, sau khi đã gặn hỏi ông ta nhiều câu hỏi quanh co, và sau một lúc im lặng, ông ta có vẻ như đang lắng nghe giọng nói của một người nào đó mà không ai trong chúng tôi nhìn thấy. Đó cũng chính là cách ông ta tiếp nhận những lời dạy của sư phụ trong khi đi đường.

Thấy rằng không còn khai thác thêm được điều gì nữa từ ông ta, chúng tôi tạm biệt và trở lại với bà Blavatsky. Chúng tôi quyết định ngủ đêm trên núi, và sau khi thông báo quyết định ấy cho Baburao, anh ta và Mulji liền đi tìm một nơi cư trú thích hợp. Khi họ trở lại, chúng tôi cùng di chuyển hành lý đến một hang nhỏ dùng làm phòng ngủ đục trong vách đá, ở cách đó không xa.

Những nhà điêu khắc thời cổ đã kiến tạo ở cổng vào hang động này hai cây cột đá chạm trổ tinh vi, và bên trong động là mười căn phòng nhỏ, với những hành lang đưa đến một phòng vuông vức rộng lớn dùng làm đại sảnh trung tâm hay hội trường. Bên trái cổng vào là một bồn chứa nước đục vào vách đá để tiếp nhận một thứ nước suối rất trong và mát lạnh.

Bà Blavatsky cho chúng tôi biết rằng từ một căn phòng nhỏ trong hang có một cửa bí mật thông với những hang động khác ở trung tâm quả núi. Tại đây có các bậc siêu nhân đang ẩn trú mà người thế gian không hề biết được mảy may tung tích. Bà nói rằng, nếu có thể tìm thấy một bộ phận nào đó trên vách đá và đẩy vào đó theo đúng phương pháp thì sẽ có thể lọt vào bên trong cửa động bí mật. Đó là một sự tiết lộ rất hấp dẫn trong hoàn cảnh hiện tại!

Tôi đã thăm dò, tìm kiếm rất lâu và trong một hang nhỏ khác cách đó không xa, tôi đã thử đặt tay vào một chỗ nọ và sắp sửa đẩy mạnh vào thì bà Blavatsky gọi giật tôi lại một cách hối hả. Trong bức thư của chân sư mà tôi nhận được ở Bhurtpore sau đó, ngài cho tôi biết rằng lúc ấy tôi đã thật sự đặt tay vào đúng chỗ và đã có thể đột nhập quá sớm vào nơi ẩn trú của ngài nếu tôi không bị gọi giật trở lại.

Mulji và Babula đã cùng với Baburao đi xuống chợ trong làng để mua vật thực, chỉ còn bà Blavatsky và tôi ở lại. Chúng tôi ngồi trước cổng hút thuốc và nói chuyện. Một lát sau, bà bảo tôi hãy ngồi yên một chỗ trong vài phút và đừng nhìn quanh cho đến khi bà lên tiếng. Kế đó, bà đi vào động, còn tôi vừa hút thuốc vừa ngắm cảnh vật rừng núi mênh mông trải rộng dưới chân đồi.

Thình lình, từ phía trong hang vọng ra một tiếng động lớn giống như tiếng đóng sầm của một cánh cửa rất nặng, và một chuỗi cười dài ngạo nghễ nghe vang tai. Tự nhiên là tôi day đầu lại, nhưng bà Blavatsky đã biến mất. Bà không có mặt trong bất cứ gian phòng nhỏ nào mà tôi đã xem xét tỉ mỉ từng chi tiết. Tôi cũng quan sát cẩn thận những mặt đá trên tường, nhưng không thấy một chỗ rạn nứt nào hay một dấu hiệu gì tỏ rằng có một cánh cửa bí mật.

Tôi đã từng trải qua nhiều kinh nghiệm huyền linh trong một thời gian lâu dài với bà Blavatsky nên không thắc mắc nhiều về điều bí hiểm này, và trở lại ngồi chỗ cũ, châm lửa hút thuốc, thản nhiên chờ đợi mọi diễn biến có thể xảy ra.

Nửa giờ đã trôi qua kể từ lúc bà biến mất dạng, bỗng tôi nghe có tiếng chân người ngay sau lưng và giọng nói của bà Blavatsky nói chuyện với tôi, một giọng nói rất tự nhiên dường như không có gì đã xảy ra một cách khác thường. Tôi liền hỏi xem nãy giờ bà đi đâu. Bà đáp rằng vì bà có đạo sự cần bàn tính với chân sư X. nên bà đã đến viếng ngài tại nơi trú ẩn bí mật của ngài. Có điều lạ là bà cầm nơi tay một ngọn đao đã gỉ sét, kiểu cổ xưa trông rất kỳ dị. Bà nói là đã lượm được trong một hành lang bí mật và mang theo tới đây. Bà không chịu để cho tôi giữ cây đao ấy, mà dùng hết sức quăng nó ra xa. Tôi nhìn thấy nó rơi xuống một bụi rậm ở tận dưới chân đồi.

Tôi không giải thích những sự việc đã xảy ra, để cho độc giả tự tìm hiểu tùy khả năng của mỗi người. Tuy nhiên, để rào đón trước sự thiên lệch của những người có ít nhiều thành kiến, tôi có thể nói rằng, ngoài chuyện cây đao gỉ sét, tất cả đều có thể giải thích bằng giả thuyết thôi miên. Tiếng động của cánh cửa đá đóng sầm lại và giọng cười vang dội kéo dài, sự tàng hình và thình lình xuất hiện trở lại của bà Blavatsky, tất cả đều có thể giải thích như những ảo giác do bà Blavatsky dùng thuật thôi miên tác động trên giác quan của tôi. Bà có thể đã đi qua cổng hang ngay bên cạnh tôi để đến một nơi nào đó, và trở lại ngay trước mắt tôi mà tôi không nhìn thấy. Đó là một cách giải thích, tuy rất bấp bênh mơ hồ, của người môn đệ sơ cơ như tôi đối với một người đã lão luyện tinh thông về khoa phương thuật.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/07/2014(Xem: 7492)
Việt Nam đứng thứ 124/125 đất nước được xếp hạng, thấp hơn nhiều các quốc gia ở Đông Nam Á. Trong khi danh hiệu "Quốc gia đáng sống nhất" thuộc về Ireland Bảng xếp hạng "Quốc gia đáng sống" dùng để đo những đóng góp của mỗi quốc gia cho hành tinh và nhân loại. Có 7 phương diện được xét đến đó là "đóng góp về khoa học công nghệ, đóng góp về văn hóa, đóng góp vào hòa bình và an ninh thế giới, trật tự thế giới, bảo vệ môi trường hành tinh, đóng góp vào sự phồn vinh và bình đẳng của thế giới, đóng góp về y tế sức khỏe. từ văn hóa đến đóng góp để cái thiện hành tình và nâng cao sức khỏe cộng đồng".
27/06/2014(Xem: 6655)
Nữ Phật tử Aung San Suu Kyi, vị lãnh đạo đất nước Myanmar đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt tại Tu viện Dharmakirti Thành phố Kathmandu, thủ đô Nepal vào tuần trước. Giáo viên và học sinh Trường Trung học Prabhat địa phương đã kết thành hàng rào danh dự để nhiệt liệt tiếp đón vị danh nhân đã từng đoạt giải Nobel Hòa bình, vị lãnh đạo dân chủ của Myanmar, nổi tiếng thế giới. Nhân dịp này, Bà đã có được một chuyến trở về viếng thăm ngôi nhà cũ của mình. Nơi mà trước đây bốn mươi năm (1974) Bà đã từng lưu lại 9 tháng.
06/06/2014(Xem: 11444)
Ai cũng biết, Ấn Độ là một nước có một nền văn minh rất lâu đời. Hơn thế nữa, nơi đó còn sản sanh ra các triết gia, các đạo gia và có rất nhiều tôn giáo và thần linh. Có thể nói Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết học và thi ca. Tôn giáo nổi tiếng và thạnh hành nhứt trước khi Đức Phật Thích Ca ra đời, phải nói đó là Bà La Môn Giáo, mà hiện nay gọi là Ấn Độ giáo. Đồng thời, Ấn Độ còn có nhiều danh lam thắng cảnh với ngọn núi Hy mã lạp sơn hùng vĩ cao nhất thế giới. Đất đai rộng rãi là một bán đảo lớn có trên 5 triệu cây số vuông và với một dân số hơn cả tỷ người. Dân số được xếp loại đứng hàng thứ nhì chỉ sau Trung Quốc. Có thể nói, vị thế Ấn Độ giống như hình tam giác mênh mông, đáy ở phía Bắc, tức dãy núi Hy mã lạp sơn quanh năm tuyết phủ; đỉnh thì ở phía Nam, tức đầu đảo Tích Lan, quanh năm nóng như thiêu. Phía Tây là Ba Tư mà dân chúng, ngôn ngữ, thần thánh đều rất gần với Ấn Độ.
10/05/2014(Xem: 14061)
Tập sách Phù Tang Ký Sự do Đại Đức Thích Phước Thái biên soạn, ghi lại cuộc hành trình trong chuyến đi Nhật Bản lần đầu tiên của tác giả và của đoàn. Tổng số người đi là 25 người đa số là những liên hữu trong đạo tràng Quang Minh. Mục đích của chuyến đi nầy, nhằm thực hiện cầu an, cầu siêu cho các nạn nhân thiên tai sóng thần đã xảy ra vào ngày 11 tháng 3 năm 2011, tại tỉnh Miyagi thành phố Sendai thuộc miền Đông Bắc Nhật Bản. Ai cũng biết đó là trận thiên tai sóng thần ác liệt đã gây ra thiệt hại nặng nề về tài sản và sinh mạng. Có hơn 15.000 người chết và trên 3.000 người bị mất tích. Đồng thời, đoàn cũng cỏn đến thăm viếng thuyết giảng và ủy lạo cho 24 gia đình nghèo tại chung cư Hiệp Hội Từ Thiện. Ngoài ra, đoàn còn đi tham quan chiêm bái những danh lam thắng cảnh ở một vài nơi khác. Tất cả đã được tác giả ghi lại từng ngày, từng nơi, mà đoàn đã đi qua và thực hiện. Ngoài việc ghi chép theo lịch trình thời gian ra, tác giả còn cho chúng ta biết qua một vài vấn đề có liên quan đến đ
03/05/2014(Xem: 11349)
Tứ Đại Danh Sơn theo truyền thuyết, là những nơi có các vị Đại Bồ Tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng, hiện thân tu hành để hóa độ chúng sanh. Đó còn là những nơi thắng cảnh nổi tiếng tuyệt vời vượt thời gian qua nhiều phương diện của Phật giáo Trung Quốc từ xưa tới nay. Vì thế, mà hằng năm có nhiều đoàn du lịch đến những nơi nầy để tham quan chiêm bái. Xưa nay, đã có biết bao tác phẩm xưng tán ca ngợi hết lời nhiều điều mầu nhiệm thiêng liêng ở những nơi thắng tích nầy. Tuy nhiên, mỗi tác phẩm chuyên tải mỗi cách nhìn khác nhau. Có những tác phẩm chuyên sâu trong lãnh vực khảo cứu nặng phần triết lý, hay lịch sử. Có những tác phẩm chỉ diễn tả những phong cảnh núi non hay chuyên sâu trong lãnh vực phong hóa, mỹ thuật. Dù nhìn từ góc độ nào tự nó cũng đã mang lại cho nhơn sinh nhiều điều tìm hiểu, học hỏi thú vị.
22/03/2014(Xem: 8863)
Choáng ngợp kỳ quan Phật giáo trắng tinh như cổ tích Choáng ngợp kỳ quan Phật giáo trắng tinh như cổ tích Với màu trắng tinh khiết và lối kiến trúc độc đáo, ngôi chùa đã trở thành biểu tượng văn hóa của đất nước Phật giáo Thái Lan.
17/03/2014(Xem: 6294)
Đoàn chư Tăng, Ni và Phật tử đi từ nhiều tiểu bang ở Hoa Kỳ và nhiều tỉnh ở Canada có 80 người do Hòa thượng Thích Thái Siêu, Viện chủ Niệm Phật đường Fremont, California làm Trưởng Đoàn. Đoàn chư Tăng, Ni và Phật tử đi từ nhiều tỉnh, thành ở Việt Nam có 74 người do Thượng tọa Thích Nhật Từ, Trụ trì chùa Giác Ngộ làm Trưởng Đoàn. 154 thành viên của đoàn từ nhiều nơi đã tập trung tại New Delhi, đáp chuyến bay đi Patna, Bihar (Ấn Độ), mở đầu chuyến hành hương tại thành Tỳ Xá Ly (Vaishali). Đoàn đã đến viếng hơn 100 địa điểm, trong đó các địa điểm tham quan chính tại 3 quốc gia là:
09/03/2014(Xem: 7446)
Key Gompa là một tu viện Phật giáo Tây Tạng nằm trên đỉnh một đỉnh đồi đẹp như tranh vẽ ở độ cao 4.166m so với mực nước biển, gần sông Spiti, trong thung lũng Spiti của tiểu bang Himachal Pradesh, Ấn Độ.Amusing Planet
07/03/2014(Xem: 8323)
Chúng tôi lên tham quan Golden Rock, một ngôi chùa tháp rất linh thiêng nằm trên một tảng đá vàng. Đoàn dự kiến 10h tối sẽ về khách sạn. Tuy nhiên, do cảnh quá đẹp, không khí linh thiêng, tinh thần tuyệt vời nên tận gần 24h đêm chúng tôi mới rời Golden Rock để về khách sạn.
09/02/2014(Xem: 5102)
1- Theo truyền thống Phật giáo, hành hương là nghi thức thắp hương đi nhiễu chung quanh tháp và điện Phật và cũng chỉ việc thắp hương lễ bái trước tượng Phật, Bồ tát... Đây là cách hiểu nguyên ủy của từ “hành hương”, còn về sau này, nội hàm của “hành hương” mở rộng hơn nhiều, thậm chí đến nay hành hương đôi khi được đánh đồng với du lịch văn hóa, nhất là các tuyến du lịch tham quan các di tích lịch sử tôn giáo - tín ngưỡng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567