Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viếng thăm Ấn Độ (kỳ 7) - Lộc Uyển: vườn nai nơi Đức Phật giảng chuyển pháp luân

02/07/201302:27(Xem: 4195)
Viếng thăm Ấn Độ (kỳ 7) - Lộc Uyển: vườn nai nơi Đức Phật giảng chuyển pháp luân
LỘC UYỂN: vườn nai nơi Đức Phật giảng chuyển pháp luân (7)

 

An Do_62Các phế tháp trong khu bảo tồn khảo cổ Lộc Uyển. Từ xa là đại bảo tháp Dhamekh, tháp màu vàng của đạo Kỳ Na (bên phải), giữa sân hai tấm bảng ghi “nơi đây được cho là chỗ Đức Phật ngồi giảng đạo sau khi giác ngộ”. Hình: N.H.A.

 

 

 

Bạn rất có thể đã nghe bài thơ này:

 

...Em không nghe rừng thu,

 

Lá thu kêu xào xạc,

 

Con nai vàng ngơ ngác,

 

Đạp trên là vàng khô?

 

Không có cảnh nào thơ mộng hơn hình ảnh con nai đi giữa rừng lá vàng trong không gian yên tĩnh để chỉ nghe tiếng lá vỡ bởi những bước chân nhẹ nhàng của loài thú hiền lành đang được thi sĩ Lưu Trọng Lưu  ngắm nghía rồi tạo nên những vần thơ trữ tình để đời qua bài Tiếng Thu.

 

Nhưng có thể bạn chưa nghe Sarnath Deer Park hay còn được gọi là Lộc Uyển nếu bạn không phải là một Phật tử. Công Viên Nai hay Vườn Nai này cách thành phố Varanasi thuộc tiểu bang Uttar Pradesh của Ấn Độ khoảng 12 cây số.

 

Nếu nhà thơ tiền chiến Việt Nam có phép thần thông đi ngược thời gian 2,500 năm để tới đây, chưa chắc ông đã làm nên những giòng thơ sau đây:

 

Em không nghe mùa thu

 

Dưới trăng mờ thổn thức?

 

Em không nghe rạo rực,

 

Hình ảnh kẻ chinh phu,

 

Trong lòng người cô phụ?

 

 

Bởi nơi đây, dù là mùa thu êm ả, sẽ không có cảnh người đàn bà chờ chồng chinh chiến trở về mà có một ông hoàng tử đang hoằng pháp sau khi từ bỏ cung điện, vợ con để tìm con đường giải thoát cho mình, cho nhân loại.

 

An Do_63Tác giả trước nơi kính nhớ Đức Phật thuyết giảng Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên cho 5 anh em ông Kiều Trần Như

 

Tương truyền Sarnath nguyên là một khu rừng có nhiều nai sinh sống. Thái tử Tất Đạt Sa Cồ Đàm (Siddhartha Gautama) sau khi đạt giác ngộ đã tới Sarnath và chính nơi đây Đức Phật lần đầu tiên đã giảng kinh Chuyển Pháp Luân cho 5 anh em ông Kiều Trần Như (Kodanna), những người đã từng cùng tu theo lối khổ hạnh với Thái tử Tất Đạt Đa trong 6 năm trời.

 

Thời đó ở Ấn Độ có hai nhánh tu, một là hưởng lạc hay ép xác. Thái tử Tất Đạt Đa sau nhiều lần tầm sư học đạo và thấy những lối tu đó không đạt đến sự giải thoát đã tìm cho mình hướng đi riêng. Sau 49 ngày đêm ngồi thiền dưới cây bồ đề ở Bodhgaya thái tử đã đạt chánh quả, tìm ra giáo lý mới là Trung Đạo và Con đường Tám nhánh. Và chính nơi đây kinh Chuyển Pháp Luân (chuyển bánh xe pháp)– giáo lý căn bản của Phật pháp—đã được Đức Phật truyền cho những đệ tử đầu tiên và nay bánh xe pháp được hàng trăm triệu người trên thế giới nghe theo và luyện tập.

 

 

Ai cũng có thể trở thành Phật

 

 

Một tôn giáo, dù đa thần hay độc thần, đều tin rằng ông thần hay thượng đế là đấng tối cao dựng nên trời đất muôn vật hay con người. Thần hay thượng đế đó có quyền năng trên con người và vạn vật, có quyền ban sự sống và lấy đi. Thần hay Thượng đế của các tôn giáo  (theo giáo lý hay sách vở truyền lại) bảo tín đồ phải thờ ngài, rằng ngài là thượng đế duy nhất v.v... Ai tin sẽ được cứu rỗi. Ai xin sẽ được ban, một cách nào đó. Bởi vậy mới có vấn đề cầu nguyện, xin ơn.

 

Phật giáo do Đức Thích Ca Mâu Ni truyền giảng lại khác. Bởi Đức Phật nguyên là một con người xác phàm, có cha mẹ, có vợ con, thừa hưởng di sản đạo Bà La Môn của tổ tiên nhưng thấy đạo này không giúp con người thoát khỏi khổ đau nên đã xuất gia tìm đạo và đã đạt được chánh quả, thành Phật. Phật có nghĩa là người đã giác ngộ.

 

Phật Thích Ca không bảo phải thờ ngài như vị thần hay thượng đế,  cũng chẳng hứa khi xin hay cúng thì sẽ ban ơn. Đức Phật chỉ dạy phương pháp để con người trở nên tốt hơn, để được giải thoát.

 

Như vậy, thiển nghĩ, Phật không hẳn là một tôn giáo theo nghĩa thông thường mà là một lối sống, hành xử hay nói một cách khác, là một triết học, một nền triết học rất cao xa vượt hẳn các nền triết học Hy-La cùng thời.

 

Khi đã là một triết lý, những người tin theo có thể tùy nghi suy luận và hành xử. Bởi vậy trong Phật giáo cũng có nhiều nhánh phái. Phật đã chẳng nói ai cũng có thể thành Phật hay sao nếu biết tu tập theo cách ngài dạy? Trước ngài đã có Phật, sau ngài cũng có Phật.

 

An Do_64Đền Mulagandha Kuty Vihara, bên phải có tượng Phật giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như (tường bọc màu trắng), đại tháp Dhamekh nằm xa xa ở góc trái. Hình: N.H.A.

 

 

Hồi còn là học sinh, triết học của Phật giáo lôi cuốn tôi bởi vì sự cởi mở, phóng khoáng và khoan dung của tôn giáo này. Trong nhân sinh quan và vũ trụ quan của Phật giáo, tôi thích nhất là ý niệm về cáiDuyên và thế giới bên ngoài thế giới của chúng ta—hằng hà sa số thế giới như Đức Phật nói.

 

Những thắc mắc muôn thuở của con người chưa được một nền triết học nào giải đáp thỏa đáng: Con người từ đâu đến? Sinh ra để làm gì? Chết sẽ đi về đâu?

 

Vì thế, những lúc bàn luận về tôn giáo với một người bạn thân giỏi về triết học, chúng tôi đã nghĩ rằng mình có thể thành Phật nếu mình biết cách và chịu tu luyện bởi vạn vật và chúng sinh đều là Phật. Phật tại tâm. Và Thái tử Tất Đạt Đa là vị Phật vĩ đại, cao siêu nhất.

 

Sau năm 1975 khi đi làm rẫy, sống trong rừng tôi đã có dịp đọc cuốn  sách “Câu Chuyện Giòng Sông” của nhà văn Hermann Hesse, một người Đức thâm sâu về triết Đông. Tiểu thuyết này nói về hành trình tìm đạo một vị thái tử có tên Tất Đạt Đa trong khi yêu đương, hưởng lạc thú một con người đầy dục vọng vẫn ước mơ tìm một chân trời mới. Câu chuyện giòng sông ẩn dụ sự cô đơn muôn thuở của con người.

 

An Do_65Bàn thờ Phật trong đền Mulagandha Kuty Vihara

 

Qua tác phẩm đó, tôi đã hứng chí viết hai bản nhạc, xin ghi lại để chia sẻ cùng bạn đọc:

 

 

Thiền Sư Xuống Núi (bấm để nghe)

 

Có người từ non cao

 

Vượt qua bao nhiêu đèo

 

Có người từ non cao

 

Vượt qua bao hầm hố

 

Có người từ mây xanh

 

Về thăm nơi dương trần

 

Có người từ mây xanh

 

Về vui với người đời.

 

* * *

Thấy được một cành hoa

 

Thiền sư quên lần hạt

 

Thấy được một cành hoa

 

Thiền sư quên gõ  mõ

 

Ngửi được mùi đào thơm 

 

Miệng thôi A Di Đà

 

Ngửi được mùi đào thơm

 

Câu kinh đổi lời tình.

 

* * *

 

Thiền sư nay xuống núi

 

Bước chân đi vào đời

 

Gối hoa thay gối đá

 

Nệm bông thế giường cây

 

Thiền sư nay xuống núi

 

Lún sâu nơi trần đời

 

Áo tơ thay áo vải

 

Hóa thân kẻ si tình

 

* * *

 

Có người từ non cao

 

Vượt qua bao nhiêu đèo

 

Thấy được một cành hoa

 

Cõi u minh vừa hé

 

Ngửi được mùi đào thơm

 

Lòng sân si vừa mở

 

Thoát nợ làm thiền sư

 

Thiền sư vướng nợ tình.

 

An Do_66Hình vẽ trên tường cảnh Đức Phật nhập niết bàn  tại đền  Mulagandha Kuty Vihara.  Hình: N.H.A.

 

 

Yêu trần gian như điên cuồng nhưng chẳng tìm được cái chân lý của lạc thú như quan niệm của phái hưởng lạc nên thiền sư lại trở về cái nghiệp tu của mình.

 

 

 

Lên Núi (bấm để nghe)

 

Xưa anh là mây

 

Lạc bước về đây

 

Xưa anh là gió

 

Gió tạt vườn hoa

 

Xưa anh là nguồn

 

Ở tận đầu non

 

Xưa anh là đá

 

Đá không có nhà

 

* * *

 

Xưa anh là cây

 

Rừng núi mà ra

 

Xưa anh là lá

 

Bỏ cội mà đi

 

Xưa anh Bồ đề

 

Câu kệ lời kinh

 

Xưa anh thiền sư

 

Thiền sư quên chùa

 

* * *

 

Anh về gian trần

 

Về chốn si mê

 

Bốn mùa yêu ấy

 

Mấy kiếp tu hành

 

Anh tìm về non

 

U mê đã hết

 

Tu là cõi phúc

 

Tình là dây oan

 

* * *

 

Nay anh là mây

 

Tỉnh giấc ngủ say

 

Nay anh là lá

 

Lá về cội cây

 

Nay anh là nguồn

 

Trở lại tìm non

 

Nay anh thiền sư

 

Thiền sư về chùa.

 

 

Tôi cảm thấy thú vị với câu “bốn mùa yêu bằng mấy kiếp tu hành” trong bài Lên Núi bởi theo tôi nghĩ, yêu đương cũng là tu tập.

 

An Do_67Sarnath Deer Park: sở thú có bảng vẽ hình nai trước chuồng (bên trái) nhưng không có con nai nào cả đành phải ngắm cây đa. Hình: N.H.A.

 

 

Trước năm 1980 khi chưa vượt biên được, tôi cùng bạn bè thường tụ tập hát hỏng và hai bài ở trên là một trong số những bài bạn bè thích vì lời lẽ có tính cách triết lý vụn của tôi.

 

Tôi nhớ có lần cùng nhóm bạn đi uống cà phê ở một quán nhạc sống (hình như) bên Đa Kao nơi nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 đang đệm dương cầm vào buổi tối. Một người bạn đưa bản Thiền Sư Xuống Núi cho nhạc sĩ và đề nghị đánh cho tôi hát. Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 gật gù thích thú khi đệm đàn và sau đó nói rằng tiếc là thời buổi bây giờ không còn như ngày xưa, ngụ ý  tôi là một “mầm non văn nghệ”?

 

(Xin mở ngoặc: Sau năm 1975, tôi có viết một số nhạc phẩm nói về thân phận con người dưới chế độ cộng sản và sang đảo Ga Lang bên Nam Dương tôi có in một tập nhạc có tựa Thân Phận Ca, rồi tổ chức một đêm trình diễn tập nhạc này.  Thời đó nhạc sĩ Lê Văn Thiện cùng ở chung trại. Năm 1981, nhạc sĩ Lê Văn Thiện hòa âm 4 bài trong tập Thân Phận Ca của tôi, và ca sĩ Thanh Thúy thu băng vào cuốn Siêu Âm 1. Tôi được ca sĩ Thanh Thúy gởi tặng cho một cuốn băng cassette nhưng rồi đã  bị lạc mất. Và tất cả chỉ là kỷ niệm đáng nhớ của một thời văn nghệ).

 

 

Chuyển pháp luân và Tam bảo

 

5 tuần lễ sau khi Đức Thích Ca thành đạo dưới cây bồ đề ở Bodhyaga, ngài đi bộ tới Sarnath, đường dài hàng trăm cây số, phải vượt qua Sông Hằng.  Chúng tôi sau một ngày ở thành phố Varanasi (được phiên âm là Bà La Nại), chúng tôi đến Sarnath (Lộc Uyển) bằng xe hơi do người hướng dẫn viên Rajesh sắp xếp, giá đưa đón 700 Rupee. Chúng tôi có thể đi xem bao lâu cũng được, anh và người tài xế sẽ đợi bên ngoài.

 

Xe chạy mất khoảng 45 phút. Vào cổng không phải trả tiền. Trên đường lót gạch vào ngôi đền có tên Mulagandha Kuty Vihara có những bảng vẽ hình Đức Phật đang thuyết giảng cho đám đông với trích dẫn câu nói của ngài bằng tiếng địa phương và tiếng Anh. Đền này do một người Tích Lan xây và khánh thành năm 1931, nơi đây có xá lợi Phật. Hai bên có sân cỏ và nhiều cây cối, tuy vậy cũng không làm giảm bớt cái nóng luôn trên 40 độ của mùa hè ở xứ nắng cháy người này. Tôi thấy có những người nằm ngủ dưới những gốc cây bên cạnh là y phục trải rộng ra như tận dụng trời nắng để chóng khô sau khi giặt. Tôi nghĩ họ là khách hành hương bản xứ từ xa đến.

 

Vào đền phải bỏ dép bên ngoài, có người giữ. Anh thanh niên này tươi cười liên tiếp hỏi quốc tịch chúng tôi theo thứ tự khi tôi trả lời không: Nhật? Thái? Việt?

 

Điều này có thể được giải thích trong số người Á Châu đến thăm Lộc Uyển, người Việt Nam đứng hàng thứ ba. Bên trong đền có bảng ghi chụp hình 20 Rupee, nhưng chỉ là “donation”, tùy hỉ.

 

Kiến trúc bên ngoài đẹp và cầu kỳ, nhưng bên trong rất đơn giản, chỉ là tượng Phật ở chánh điện, ba bức tường là những hình vẽ cuộc đời của Đức Phật từ khi sinh ra cho đến lúc thành đạo  và hình vẽ cái tháp giải thích bằng tiếng Anh cách đạt đến  wisdom (trí huệ) qua the only ways (phương pháp duy nhất) là Four foundations of Mindfulness (tứ diệu đế).

 

Đền được xây ở phía đông nơi tương truyền Đức Phật thuyết giảng lần đầu tiên.

 

Phía tay phải của đền là khu tu viện. Nơi đây có tòa nhà nho nhỏ với giòng chữ khắc trên cổng “Đức Phật thuyết giảng lần đầu tiên cho các đệ tử của ngài”.

 

Bên trong có tượng Phật bao quanh bởi 5 vị sư. Bên cạnh có dựng cái bia thật lớn bằng cẩm thạch đen khắc nguyên văn Kinh Pháp Luân bằng tiếng Phạn (Dhamma Chakka Pavattana Sutta) và tiếng Anh (The Wheel of Law).

 

Chúng tôi chỉ đứng trong khu vực này được vài phút bởi đến giờ đóng cửa và người giữ cửa rất khó khăn, bảo phải ra ngay không cho nán lại chụp thêm vài bức hình giữa sân. Thời gian đóng cửa khu vực Phật thuyết giảng: 11.am- 1.30pm.

 

Trong khu vực này tôi thấy có bảng ghi: “May you all be happy with the blessings of the triple  gem, the Buddha, Dhamma and Sangha”.

 

Thế là Tam bảo hình thành từ nơi này. Vườn Nai là nơi Phật truyền Phật pháp và thành lập tăng đoàn đầu tiên. Đặt chân ở Lộc Uyển là đã đến đất thánh của Phật giáo.

 

Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào bên trong để thăm viếng và quan sát công viên và sở thú “mini zoo” của Sarnath Deer Park. Có những người gác cổng với giá ghi “Asians 10 Rupeee – Foreigners 50 Rupees”.Chúng tôi là người ngoại quốc đối với nước Ấn Độ, có quốc tịch Úc nhưng được họ tự động đưa cho cái vé 10 Rupees để trả. Dĩ nhiên chúng tôi không phản đối để được trả cao gấp 5 lần!

 

Công viên rất đẹp, nhiều cây cối - cây đa và cây bồ đề tàng rất rộng-  nhưng chúng tôi ai nấy mồ hôi chảy đầm đìa. Treo bảng “mini zoo” cũng đúng thôi nhưng trong các chuồng chẳng thấy con vật nào, kể cả nai để làm cảnh. Chỉ có vài con vịt. Có lẽ trời nóng nên súc vật trong sở thú này chết hết chăng? Ở đây có cái hồ khá rộng, vài đứa con nít địa phương tắm giữa trưa hè. Tôi chụp hình cái hồ (tránh chụp chúng) nhưng các ông thần con này vẫn ra hiệu không cho. Tôi thấy một số trẻ con ở một số nước Trung Đông và Á Châu không thân thiện và lịch sự với các du khách, một thái độ trái ngược so với những lúc du dịch ở các nước Tây phương.

 

An Do_68Đền đạo Kỳ Na (Jain Temple) tại Lộc Uyển. Hình: N.H.A.

 

Chúng tôi đi bộ sang một ngôi đền bên cạnh, đấy là Sridigamber Jain Temple. Có vài du khách người Tây phương ở đây. Tôi không rành về Kỳ Na giáo, chỉ biết đạo này có những vị tu sĩ ốm o giống các đạo sĩ yoga và nhiều người không mặc áo hay mặc quần, lõa thể một trăm phần trăm.

 

Người giữ đền hỏi tôi từ đâu đến và khi nghe tôi nói là người Việt Nam, ông ta xin cho ông tiền Việt Nam để làm kỷ niệm nhưng tôi bảo tôi là người Việt nhưng không sống ở nước Việt Nam.

 

Thấy giữa đền có tượng màu đen, hỏi đó là ai, nhưng ông ta nói một tràng tôi chẳng hiểu gì. Rồi ông ta đưa cho tôi xem bảng danh sách đề tên 24 người trong đó người cuối danh sách là Mahavira, tức vị đại sư cuối cùng. Ông ta nói vị đại sư  này bà con anh em họ (cousin) với Đức Phật Thích Ca. Trước đây tôi nghe anh hướng dẫn viên người Ấn nói hóa thân lần thứ ba của thần Shiva là God of Budhha nay lại nghe có sự bà con giữa đại sư với Đức Phật nên tôi chẳng hiểu gì.

 

Thấy tôi ú ớ, ông đưa cho tôi bức hình các vị guru (đạo sĩ) của Kỳ Na giáo đang gặp gỡ chuyện trò với Đức Đạt Lai Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng trong khi các vị đạo sĩ ở trong tư thế “công xúc tu sĩ” nên chúng tôi bái-bai ông để ra về.

 

Nhà tôi hỏi đạo Kỳ Na là gì, thờ ai. Tôi không rõ, nên đã lên internet tìm hiểu và bắt gặp một đoạn giải thích như sau:

 

Kỳ Na Giáo là một tôn giáo ở Ấn Độ giống với Phật giáo nhất, nhưng khác nhau là Kỳ Na Giáo chuyên tu khổ hạnh, còn Phật Giáo không phải là khổ hạnh mà là Trung Đạo. Đây là lời chính Phật Thích Ca nói ra trong bài giảng pháp đầu tiên của mình ở Vườn Nai cho 5 người tu khổ hạnh:

Có 2 cực đoan mà người muốn chứng quả giải thoát phải từ bỏ là:

Một là sống hưởng thụ dục lạc xa hoa, không thích đáng đến bậc Thánh. Hai là tự mình làm khổ mình một cách vô ích, khổ hạnh ép xác, không liên quan đến bậc Thánh. Thoát ly 2 cực đoan ấy, con đường phải đi tới giải thoát là Con Đường Trung Đạo mà chính ta đã tìm ra.

Như thế Đạo Phật không chủ trương tu khổ hạnh, mặc dù chính đức Phật trong lúc tìm đạo đã tu khổ hạnh 6 năm sau đó bị té xỉu ở bên giòng sông Ni Liên Thuyền, tỉnh dậy nhờ bầu sữa của cô gái chăn cừu đem theo để ăn trưa, sau đó ngài từ bỏ vì vô ích.


Đó là điểm khác nhau giữa Đạo Phật và Kỳ Na giáo.

 

 

An Do_69“Xưa anh là mây lạc bước về đây...”: Đền đài to lớn ở Lộc Uyển theo thời gian chỉ còn là những đống gạch nói lên  sự vô thường trong triết lý của Phật. Hình: N.H.A. 


 

Điểm khác nhau căn bản thứ 2 giữa Kỳ Na giáo và Phật Giáo là: Kỳ Na giáo chủ trương có Đại Phạm Thiên Vương (Brahman) tạo ra vũ trụ và con người, con người chỉ là một Tiểu Ngã (Atman) chiết ra từ Đại Ngã, tu khổ hạnh, khắc kỷ để Tiểu Ngã trở về hợp nhất Với Đại Ngã là Chứng Đạo, vì Kỳ Na giáo cũng chỉ là một nhánh của Ấn Độ Giáo mà thôi. Còn Đạo Phật không chấp nhận lý thuyết ấy, không có Đại Phạm Thiên Vương nào tạo ra vũ trụ và con người cả, không có Đại Ngã, cũng không có Tiểu Ngã, mà hoàn toàn là Vô Ngã.

Đó là 2 điểm khác nhau giữa Phật Giáo Và Kỳ Na Giáo. Điểm khác nhau thứ nhất là về cách tu cách sống, điểm khác nhau thứ  hai là quan điểm về vũ trụ quan và nhân sinh quan. Kỳ Na giáo là Hữu thần giáo, còn Phật Giáo là vô thần giáo.

 

Còn về việc tại sao trong đạo này có người mặc y phục, có người thoát y, thì có một giải thích như sau.

 

Kỳ Na giáo (Jainism) do Thánh Mahavira (540 TCN – 468 TCN) sáng lập ở miền Bắc Ấn Độ, cùng thời với Phật giáo. Triết lý chính của tôn giáo này chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Veda, họ lấy nguyên tắc bất tổn sinh (ahimsa), thiền định và nỗ lực vượt qua những cám dỗ của phàm ngã để đạt đến cõi Niết Bàn.

 

Các tu sĩ Kỳ Na giáo phải thực hành thiền định theo 22 điều khổ hạnh như kềm chế cơn đói, khát, chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết nóng, lạnh, chấp nhận môi trường thiên nhiên cho muỗi đốt, ruồi bu, đối với cơ thể khống chế sự khát vọng về quyền lực, danh vọng, thù ghét, yêu thương và chối bỏ hoàn toàn nhục dục…

 

Kỳ Na giáo được chia làm hai trường phái gồm Svetambara (mặc đồ trắng) và Digambara (khỏa thân hoàn toàn). Dù cùng thừa nhận lý tưởng từ chối tất cả mọi sự ràng buộc về vật chất dù đó là quần áo và xem việc lõa thể là cần thiết, tuy nhiên, trường phái Svetambara lại chấp nhận thỏa hiệp cho tín đồ quấn vải trắng lên người.

 

Thánh Mahavira cũng thực hành khổ hạnh khỏa thân suốt 12 năm trước khi trở thành một jina. Nhiều tranh tượng của Mahavira được thể hiện trong hình dạng một tu sĩ khổ hạnh khỏa thân ngồi thiền định.

 

Việc khỏa thân còn giúp tín đồ Kỳ Na giáo đạt đến phẩm chất của tính không, phủ nhận một cái ta (phàm ngã) đang tồn tại, vượt qua những ràng buộc đạo đức giả tạo của xã hội, cũng như chinh phục cái tư tưởng định kiến xem chuyện trần truồng có liên quan đến tình dục (hết trích).

 

* * *

 

An Do_70Dhamekh Stupa: bảo tháp lớn nhất còn lại trong khu Sarnath này. Hình: N.H.A.

 

Khi còn đứng bên “mini zoo” của Sarnath Deer Park và lúc thăm viếng đền thờ của đạo Jain, chúng tôi thấy có một bảo tháp rất lớn nên tôi muốn đi xem. Nhà tôi chịu nắng không nổi, muốn xỉu nhưng cũng chấp nhận đi theo tôi để xem cái tháp đó là gì. Té ra đây là khu di sản quốc gia có tên là Archaeological Survey of India, được bảo vệ qua đạo luật bảo tồn di tích cổ. Vé vào cửa 100 Rupee. Nơi đây có những chỗ tọa thiền được bảo vệ, những bảo tháp lâu đài được cho là xây từ đời A Dục Vương và các triều đại kế tiếp đã bị đổ nát vì chiến tranh bởi các vua Hồi giáo, chỉ còn những bức tường gạch. Giữa khu đất rộng này có cắm bảng ghi dòng chữ “nơi đây được cho là chỗ Đức Phật ngồi giảng đạo sau khi giác ngộ”.

 

Và cái tháp to lớn có thể nhìn từ xa là Dhamekh Stupa, một bảo tháp cao 33.35 mét (kể cả đế cao 42.60 mét), đường kính 28.5 mét được xây để kính nhớ nơi Đức Phật thuyết giảng lần đầu và cũng là nơi cất giữ xá lợi của Phật.

 

Tôi ước gì trời dễ chịu để có thể đi hết khu vực này,  để nhìn và chiêm ngưỡng thêm cuộc đời một con người phàm nhưng trí tuệ đã đạt đến mức khó có người phàm nào vượt qua. Những suy nghĩ của ngài hơn 2,500 năm nhưng ngày nay con người và khoa học thấy đúng phần nào. Và biết đâu vài trăm năm nữa, khoa học sẽ chứng minh có... cõi ta bà?

 

Chúng tôi đi mất đúng 2 tiếng đồng hồ giữa trời nắng, trở ra đường cái thì gặp ngay Rajesh. Anh nói anh đã vào bên trong Deer Park nhưng không thấy chúng tôi, nên lo lắng đi tìm và không ngờ bắt gặp chúng tôi ở một khu vực khác. “Đứa con trai Ấn Độ” tự xưng này nói anh hú hồn vì sợ chúng tôi đi lạc hay gặp chuyện gì vì nhiệm vụ của anh là đã đưa đi thì phải đưa về. Anh nói chúng tôi nên về nghỉ ngơi để sáng mai đi xa.

 

Tôi cám ơn  người hướng dẫn dẻo miệng này và cảm thấy sẽ an tâm trên chuyến đi hàng trăm cây số bằng xe hơi tới nơi Đức Phật giác ngộ gọi là Bồ Đề Đạo Tràng. (còn tiếp)

 

Nguyễn Hồng Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 7501)
Kính lễ Đức Thế Tôn. - Ví tính: Chúc Khâm Giác Anh Trình bày: Trúc Giang - Trúc San - Quảng Thanh
09/04/2013(Xem: 4122)
Nhìn qua cửa sổ, cái hồ còn dày đặc sương mù, thỉnh thoảng cơn gió thổi qua, rượt bắt, xua đuổi sương dạt về một hướng, hiện rõ trên mặt hồ những cơn sóng nhỏ, mỏng cánh như từng thìa nước. Sóng nhấp nhô, chơi vơi, nối lìền, từng đợt nầy kết nối với đợt sóng khác.
09/04/2013(Xem: 4945)
May mắn làm sao, hôm đó chúng tôi có dịp đi chùa Thầy vào đúng ngày mồng một. Mùa thu xứ Bắc, trời không một chút nắng, thỉnh thoảng có mưa lâm thâm. Người miền Nam ra Bắc chỗ nào cũng muốn đi, muốn đến.
09/04/2013(Xem: 4750)
Chùa Thầy tên chữ là “Thiên Phúc Tự” nằm ở chân núi Sài thuộc địa phận xã Sài Sơn – huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 20km về phía Tây Nam. Chùa được xây dựng vào thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127) lưu dấu tu hành của một vị cao tăng thời Lý, Thiền sư Từ Ðạo Hạnh.
09/04/2013(Xem: 4507)
Aurangabad, Ấn Độ – Nếu bạn nghĩ rằng thời trang chỉ dành cho quần áo thì bạn nhằm rồi. Các hang động tráng lệ Ajanta và Ellora cách thành phố Aurangabad không xa lạ một trong số những địa điểm du lịch được ưa chuộng nhất vào thời gian Ấn Độ giành được độc lập.
09/04/2013(Xem: 4970)
Về Lumbini, khách hành hương thường đi từ Ấn Độ sang sau khi đã thăm viếng các thánh địa Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng), Sarnath (vườn Lộc Uyển), Kausinara (Câu Thi La), vì Nepal có chính sách visa miễn phí cho các du khách chỉ ở trong vòng 3 ngày. Các công ty du lịch tận dụng điểm này để tiết kiệm chi phí.
27/01/2013(Xem: 5622)
100 địa danh du lịch nổi tiếng ở Pháp Quốc
01/01/2013(Xem: 3346)
New Delhi (phiên âm Việt ngữ Tân Đề Li) là tên của thủ đô nước Ấn Độ ngày nay. New Delhi có nghĩa là Delhi mới. Đã có mới ắt phải có cũ. Và chỉ khi sang Ấn Độ, sống ở thành phố này trong 3 ngày tôi mới biết có một khu gọi là Old Delhi (Cựu Đề Li). Và cả Old Delhi lẫn New Delhi nằm trong phần đất có tên là Lãnh thổ Thủ đô Quốc gia (National Capital Territory of Delhi).
09/11/2012(Xem: 8448)
Ngôi Thánh địa Già lam Bạch Mã, ngôi chùa cổ xưa nhất ở Trung Quốc, tọa lạc khoảng 6 dặm Anh, cách Thành phố Lạc Dương, thuộc tỉnh Hà Nam, miền Đông Trung Quốc. Ngôi Già lam Bạch Mã Cổ Tự được sáng lập từ thời Minh Đế của triều đại Đông Hán (từ năm 29 sau Công Nguyên đến năm 75 sau Công Nguyên), gắn liền với truyền thuyết thần kỳ về sự kiến tạo thuở sơ khai.
12/09/2012(Xem: 5573)
Quan Âm Cổ Tự (Gwaneumsa-觀音古寺) nằm phía Đông bắc dưới chân núi Halla (漢拏山), Ara-dong, Thành phố Jeju. Ngôi Cổ tự được thành lập vào thế kỷ thứ 10, vào triều đại Cao Ly ‘Goryeo’ (AD 918 ~ 1392). Trong những năm 1700, triều đình Joseon (Triều Tiên) tôn sùng Nho giáo và phế Phật vì thế Phật giáo vùng Jeju lâm vào Pháp nạn, các Tự viện bị phá hủy trong đó có ngôi Quan Âm Cổ Tự. Đầu thế kỷ 20, năm Nhâm Tý (1912) vị Pháp sư Tỳ Kheo ni An Phùng - Lệ Quán (安逢麗觀) mới tái tạo lại. Năm Giáp Thìn (1964), trùng tu nguy nga tráng lệ như hiện nay. Ngôi Danh lam cổ tự hùng tráng này là cơ sở thứ 23 của Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567