Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khám phá Hình ảnh Nghệ thuật Kiến trúc Đại Bảo tháp Sanchi Ấn Độ

04/01/202205:46(Xem: 9445)
Khám phá Hình ảnh Nghệ thuật Kiến trúc Đại Bảo tháp Sanchi Ấn Độ

Khám phá Hình ảnh
Nghệ thuật Kiến trúc Đại Bảo tháp Sanchi Ấn Độ


 

Đại Bảo tháp tại Sanchi được kiến tạo vào thế kỷ thứ 3 trước kỷ nguyên Tây lịch. Chúng ta hãy cùng nhau khám phá lịch sử kiến trúc cổ đại này.

 

Sanchi một quần thể Phật giáo nổi tiếng với Đại Bảo tháp, tọa lạc trên một đỉnh đồi của thị trấn Sanchi, huyện Raisen, bang Madhya Pradesh, Ấn Độ. Sanchi là một ngôi làng nhỏ xinh đẹp ở Ấn Độ, cách Bhopal 46km về phía Đông Bắc, cách Besnagar 10km, và Vidisha nằm ở trung tâm bang Madhya Pradesh. Đây là địa điểm có nhiều kiến trúc Phật giáo có niên đại từ thế kỷ thứ 3 trước kỷ nguyên Tây lịch đến thế kỷ 12 tây lịch.

 

Đại Bảo tháp tại Sanchi được kiến tạo vào thời trị vì của vị minh quân thánh triết Ashoka, nhân vật vĩ đại trong lịch sử của Ấn Độ, vị vua Phật tử hộ trì chính pháp Phật đà, người đã có công trải rộng và phát triển giáo pháp đức Phật trong suốt những năm ông ta trị vì; và luôn luôn mong mỏi được truyền bá khắp 5 Châu 4 bể. Một cấu trúc vòm bằng gạch, được xây dựng theo kiểu mẫu vũ trụ Phật giáo. Xuyên qua tam vòng tròn là một cột trụ vươn lên, qua đỉnh vòm, tượng trưng cho cột đỡ vũ trụ. Trên cùng của nó là 3 đĩa tròn, biểu thị Tam bảo (ba ngôi báu, Phật, Pháp, Tăng), được xem là một trong những khu kiến trúc bằng đá cổ nhất Ấn Độ, những di tích Phật giáo tại Sanchi là những miêu tả kinh điển cho nghệ thuật và kiến trúc của triều đại Maurya dưới hình thức Bảo tháp (Stupa), những ngôi tự viện linh thiêng của đạo Phật.

 

Đại Bảo tháp tại Sanchi, một trong những di tích Phật giáo quan trọng nhất, phản ánh bởi nghệ thuật đá quý, và kiến trúc Phật giáo. Tọa lạc tại thị trấn Sanchi, Madhya Pradesh, Ấn Độ, Đại Bảo tháp này được kiến tạo vào triều đại Mauryan. Ban đầu được anh minh Hoàng đế phật tử Ashoka đưa vào sử dụng vào thế kỷ thứ ba trước kỷ nguyên Tây lịch, với mái vòm bán cầu rộng 12,2816.46 m (54,0ft), bao gồm một phòng trung tâm, nơi tôn trí các di tích của đức Phật. Bảo tháp được vây quanh bởi một hàng rào đá và có 4 cổng đá ở tứ phương chính, mỗi cổng đều có 3 xà ngang. Các hình cây Bồ đề, hoa sen, bảo tháp, pháp luân... được chạm khắc tinh xảo ở các xà ngang. Các trụ vuông được chạm khắc những hình ảnh minh họa kinh Bản Sinh, những câu chuyện về tiền thân của đức Phật.

 

Trên đồi Sanchi còn sót lại 50 di tích cùng với 3 ngôi Bảo tháp, nhiều ngôi tự viện Phật giáo và một cột đá nguyên khối Ashoka đã thu hút rất nhiều sự chú ý của thế giới.

 

Đại Bảo tháp tại Sanchi là một di tích quy mô, được xây dựng để biểu trưng cho cuộc đời và hành trình của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một minh họa xuất sắc về sự phát triển của nghệ thuật và điêu khắc Phật giáo bắt đầu từ thế kỷ thứ ba trước kỷ nguyên Tây lịch.

 

Nền tảng của kiến trúc tự viện Phật giáo ở Sanchi, bao gồm cả ngôi Đại Già lam Sanchi quy mô, hoành tráng, được kiến tạo bởi một trong số các vị Hoàng đế Ấn Độ vĩ đại nhất, anh minh Hoàng đế phật tử Ashoka của triều đại Mauryan, người cai trị trên hầu hết toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ (trị vì: 273-232 trước kỷ nguyên Tây lịch). Vị anh minh Hoàng đế, hộ pháp Ashoka đã truyền lệnh cho kiến tạo ngôi Đại Bảo tháp tại Sanchi để tôn trí ngọc xá lợi của đức Phật, các vị Thánh đệ tử của Ngài. Các ngôi Bảo tháp thường được xây dựng trên một bệ vuông, được bố trí cẩn trọng để các góc cạnh của ngôi Bảo tháp trùng khớp với tứ phương của la bàn, và rất nhiều Bảo tháp ở các địa điểm khác nhau trên khắp tiểu lục địa Ấn Độ để truyền bá chính pháp Phật đà.

 

Cấu trúc bán cầu hiện tại của ngôi Đại Bảo tháp, có đường kính gấp đôi cấu trúc gạch, nguồn gốc xây dựng bởi vị anh minh Hoàng đế, đại hộ pháp Ashoka, bao gồm các di tích của đức Phật. Cấu trúc bằng đá tạo thành cấu trúc vật liệu gạch nung hình bán cầu, được bao quanh bởi một lan can bằng gỗ. Bà Maharani Devi, Hoàng hậu của vị anh minh Hoàng đế, đại hộ pháp Ashoka, và con gái của một thương gia Vidisha, người sinh ra tại Sanchi, giám sát việc thi công xây dựng công trình quy mô này. Một trụ cột bằng đá sa thạch, được ghi khắc bởi Schism Edict của vị anh minh Hoàng đế, hộ pháp Ashoka, cũng như các ký tự “Brahmi” trang trí hoa văn xoắn ốc trên Bảo tháp giống như đuôi vỏ ốc được gọi là 'Shankhalipi' hay 'shell-script' của các học giả, đã được dựng lên trong khu vực này.

 

Sự phá hủy và sự mở rộng của Đại Bảo tháp trong thời Shunga

 

Senapati, Đại tướng của Đế quốc Maurya, Pushyamitra Shunga đã giết Brihadratha Maurya, Hoàng đế Mauryan cuối cùng trong một cuộc kiểm tra quân đội vào năm 185 trước kỷ nguyên Tây lịch và đặt nền móng cho Đế chế Shunga ở Bắc Ấn Độ. Theo bản văn ngôn ngữ Sanskrit Ấn Độ có tựa đề "Ashokavadana" mô tả sự ra đời và triều đại của Ashoka, các giả định cho thấy Đại Bảo tháp tại Sanchi có thể bị phá hủy trong thế kỷ thứ hai trước Kỷ nguyên Tây lịch, một sự kiện mà nhiều người tin là liên quan đến sự gia tăng quyền lực của Pushyamitra. Sau đó nó được xây dựng lại bởi con trai ông, Agnimitra (149-141 TCN) là vị vua thứ hai của triều đại Shunga ở miền bắc Ấn Độ.

 

Trong triều đại Shunga, sự mở rộng ngôi Đại Bảo tháp tại Sanchi, gần gấp đôi kích thước ban đầu của nó, với mái vòm phẳng hơn đã được thực hiện bằng cách sử dụng các phiến đá, gạch bao phủ hoàn toàn ngôi Đại Bảo tháp tại Sanchi.

 

Khám phá lại trong công trình phục hồi thế kỷ 19

 

Vào đầu thế kỷ thứ 19 (1818), theo một tài liệu bằng tiếng Anh của Trung tướng Sir Herbert Taylor (1775-1839) người Anh, đã ghi chép sự tồn tại của ngôi Đại Bảo tháp tại Sanchi (Stupa Sanchi). Năm 1881, thợ săn kho báu và các nhà khảo cổ nghiệp dư, đã gây ra nhiều thiệt hại cho ngôi Đại Bảo tháp, sau đó các bước tiến triển tích cực trong việc thực hiện, để khôi phục lại các giá trị của di tích cổ này. Sir John Hubert Marshall (1876-1958), người từng là Tổng Giám đốc của "Khảo sát Khảo cổ học của Ấn Độ" (ASI) từ năm 1902 đến năm 1928 giám sát công việc khôi phục lại ngôi Đại Già lam cổ tự trong khoảng thời gian từ 1912 đến 1919.


Thap Sanchi (1)Thap Sanchi (2)Thap Sanchi (3)Thap Sanchi (4)Thap Sanchi (5)Thap Sanchi (6)Thap Sanchi (7)Thap Sanchi (8)Thap Sanchi (9)Thap Sanchi (10)Thap Sanchi (11)Thap Sanchi (12)Thap Sanchi (13)Thap Sanchi (14)Thap Sanchi (15)Thap Sanchi (16)Thap Sanchi (17)Thap Sanchi (18)Thap Sanchi (19)Thap Sanchi (20)Thap Sanchi (21)Thap Sanchi (22)Thap Sanchi (23)Thap Sanchi (24)Thap Sanchi (25)Thap Sanchi (26)Thap Sanchi (27)Thap Sanchi (28)Thap Sanchi (29)Thap Sanchi (30)Thap Sanchi (31)


 

Ngôi Đại Bảo tháp tại Sanchi (Stupa Sanchi) nổi tiếng thế giới, các công trình kiến trúc khác ở Sanchi miêu tả sự sáng tạo của nghệ thuật và điêu khắc Phật giáo, thu hút sự chú ý của hàng triệu du khách thập phương quanh năm, bao gồm du khách trong nước và ngoại quốc, các nhà khảo cổ và sử học. Khu di tích cổ đại này vẫn mở cửa từ lúc mặt trời mọc đến hoàng hôn. Khi khí hậu nơi đây vẫn nóng trong suốt năm, thời gian tốt nhất để hành hương chiêm bái thánh tích Sanchi là vào mùa Đông Xuân, từ tháng 11 đến tháng 3 Tây lịch. 

 

Phương tiện đi nơi hành hương chiêm bái ngôi Đại Bảo tháp tại Sanchi, bằng đường hàng không hoặc đường sắt đến Bhopal được kết nối giao thông với nhiều thành phố khác của Ấn Độ, đường bộ đến Sanchi bằng xe buýt, xe taxi và xe ô tô tư nhân được cung cấp bởi các nhà điều hành tour du lịch khác nhau. Sanchi cũng có thể đi bằng đường bộ từ Vidisha (10km) và Indore (232km). 

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Cultural India)

(*) Là tên gọi ngày nay cho một trong những chữ viết lâu đời nhất được sử dụng trên Tiểu lục địa Ấn Độ và Trung Á, trong những thế kỷ cuối trước kỷ nguyên tây lịch và những thế kỷ đầu kỷ nguyên Tây lịch.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 15586)
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan1, Miến Điện2, Thái Lan, Ai Lao3, Cao Miên4, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương5 quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phổ cập hầu khắp các nước trên thế giới.
09/04/2013(Xem: 14992)
Ngày nay trên khắp các châu lục người ta đều biết đến Phật giáo là tôn giáo được phát nguyên từ Ấn Độ. Duy có điều để hiểu về quá trình hình thành, truyền bá và phát triển của Phật giáo là như thế nào,thì phải cậy đến sử học. Muốn hiểu lịch sử của một quốc gia, một tôn giáo v.v... điều cần yếu là sự thật. Nhưng thế nào là sự thật? Nhất là sự thật lịch sử. Bởi thường thì người ta hay đứng trên một quan điểm nào đó để viết sử; nếu thiếu tinh thần khách quan và trách nhiệm, sự thật của lịch sử cũng theo đó mà bị dị dạng!
09/04/2013(Xem: 3511)
Như chúng ta đã biết qua trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ, trong khi trưởng thànhđã chia thành hai thân cây lớn,một thân cây hướng về phía Nam, tức là Nam tôn Phật Giáo,trong thân cây hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo.
09/04/2013(Xem: 16226)
Ngày xưa khi còn là chú điệu, thỉnh thoảng đâu đó tôi có nghe người lớn nói về Tây Tạng, coi Tây Tạng như một nơi đầy những chuyện thần kỳ, huyền bí. Nào là ở Tây Tạng có “Phật sống”, có những “cậu bé” vừa tròn ba, bốn tuổi đã tự biết và nói trúng những gì thuộc về kiếp trước của mình. Có những vị Lạt-ma tọa thiền trên tuyết hồi lâu tuyết tự tan, hoặc nói là dân Tây Tạng sống chung với các vị Thánh có phép thần thông, dân Tây Tạng ai ai cũng tu niệm và đọc tụng thần chú đạt đến hiển linh v.v..
09/04/2013(Xem: 4026)
VNQL 2256/624 Trước TL (Đinh-Dậu) : Thái tử Tất-Đạt-Đa, vị Phật tương lai, giáng trần tại Kapilavastu, gần biên giới Nepal và Ấn Độ. VNQL 2274/606 B.C (Ất-Mẹo) : Vua Tịnh Phạn buộc Thái tử Tất-Đạt-Đa (19 tuổi) kết hôn với Công chúa Gia Du Đà La.
09/04/2013(Xem: 13717)
Có không ít người thường viện dẫn câu hỏi triết học: ‘Trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng’ để phủ nhận đạo lý nhân quả trước sau. Vì đứng từ nghĩa tuyệt đối, mọi sự vật trên thế gian này chỉ là vòng lẫn quẩn không có cái nào trước, cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy, trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của con người trở thành vô nghĩa?
09/04/2013(Xem: 4273)
Dựa vào một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn giáo)[1] và Harsacarita, chúng ta thấy rằng, vua Brhadratha chính là vị hoàng đế sau cùng thuộc triều đại Maurya. Vị vua này bị vua Pusyamitra xác hại để cướp ngôi. Vua Pusyamitra là người đã từng nắm chức tổng tư lệnh trong quân đội dưới triều đại của vua Brhadratha. Ông đã cướp lấy ngôi vua thuộc vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) và sáng lập nên triều đại Śunga. Kinh Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) còn ghi lại rằng, vua Pusyamitra là người thuộc triều đại Maurya
09/04/2013(Xem: 6358)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Ðạo Phật biến mất trên đất Ấn Ðộ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Ðộ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Ðộ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
08/04/2013(Xem: 8788)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
08/04/2013(Xem: 17471)
Thật ngạc nhiên là ngay từ năm 1859 tức là hơn một thế kỷ trước, các học giả Âu châu đã quan tâm tới sự xuất hiện của các Bộ phái Phật giáo (PG) ở Ấn Ðộ, tuy nhiên họ chỉ nói tới tên của những phái này mà không bình luận gì cả. Bài viết sớm nhất là của St. Juliesn "Danh sách mười tám Bộ Phái Phật Giáo" đăng trong tạp chí Journal Asiatique vào năm 1859. Bài viết này được tiếp theo bởi M.V.Vasilief năm 1860, Rhys Davids và Oldenberg năm 1881, H. Kern năm 1884 và I.P.Minayeff năm 1884.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]