Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngôi Già lam Cổ tự Ta Som cuối Thế kỷ 12 tại Campuchia

04/01/202205:45(Xem: 5511)
Ngôi Già lam Cổ tự Ta Som cuối Thế kỷ 12 tại Campuchia




Ngôi Già lam Cổ tự Ta Som
cuối Thế kỷ 12 tại Campuchia




 

Ngôi già lam cổ tự Ta Som (tiếng Khmer: ប្រាសាទតាសោម), ngôi chùa nhỏ ở trong quần thể Thánh địa Phật giáo Angkor, Vương quốc Phật giáo Campuchia, được kiến tạo vào cuối thế kỷ 12 cho Quốc vương Jayavarman VII  (tại vị: 1181-1215?). Ngôi già lam cổ tự tọa lạc tại dông bắc của Angkor Thom và ngay phía đông của Neak Pean ("con rắn quấn") tại Angkor, một hòn đảo nhân tạo với một chùa trên một đảo hình tròn ở Preah Khan Baray được xây trong thời kỳ trị vì của đức Quốc vương Jayavarman VII vị anh minh Phật tử hộ pháp Đại thừa Phật giáo, vị vua thần hộ trì chính pháp đầy nhân ái, người đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Đức Quốc vương Jayavarman VII còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Campuchia.

 

Quốc vương đã dành ngôi già lam cổ tựu cho phụ vương là Dharanindravarman II (Paramanishkalapada), đức vua của Đế chế Khmer từ những thập niên 1150-1160. Ngôi già lam cổ tự Ta Som bao gồm một đền đơn lẻ nằm trên một tầng và được bao quanh bằng lớp tường đá ong. Giống như Preah Khan và Ta Prohm gần đó, ngôi già lam cổ tự hầu như không có người ở, với vô số cây cối và thảm thực vật mọc lên giữa tàn tích.

 
Năm 1998, tổ chức phi lợi nhuận thế giới Quỹ bảo vệ văn vật kiến trúc thế giới (WMF) đã thêm ngôi già lam cổ tự này vào chương trình trùng tu và bắt đầu công việc ổn định kết cấu để an toàn hơn cho du khách.

 

Kết cấu

 

Được thiết kế để đi vào từ phía đông, ngôi già lam cổ tự Ta Som được bao quanh bởi một con hào và được bao bọc bởi ba lớp tường đá ong, thông qua hai cặp gopura (cổng lối vào). Các gopura có hình chữ thập và chứa một căn phòng nhỏ ở mỗi bên cùng với các cửa sổ chứa lan can. Cấu trúc chính của popura được chạm khắc với tứ diện theo phong cách Bayon. Gopura bên ngoài hướng đông đã bị cây sung thiêng (Ficus religiosa) bám rễ bao lấy và đâm xuống đất. Phần bên trong của ngôi già lam cổ tự bao gồm một khu đền thiêng hình chữ thập tại trung tâm với các cổng vòm tại mỗi cánh hông, được bao quanh bởi tứ gian ở góc. Hai thư viện nhỏ nằm ở hai bên lối vào phía đông.

 

chua campuchia (1)chua campuchia (2)chua campuchia (3)chua campuchia (4)chua campuchia (5)chua campuchia (6)chua campuchia (7)chua campuchia (8)chua campuchia (9)chua campuchia (10)chua campuchia (11)chua campuchia (12)chua campuchia (13)chua campuchia (14)chua campuchia (15)chua campuchia (16)chua campuchia (17)chua campuchia (18)chua campuchia (19)chua campuchia (20)chua campuchia (21)chua campuchia (22)



Khôi phục

 

Theo Cơ quan Quốc gia Apsara (ANA), quản lý các ngôi đền chùa trong Thánh địa Phật giáo Angkor, rất ít công tác trùng tu được thực hiện tại Ta Som cho đến giữa thế kỷ 20 1950. Tại thời điểm này, một số công trình gần như sụp đổ thành phế tích. au khi tổ chức phi lợi nhuận thế giới Quỹ bảo vệ văn vật kiến trúc thế giới (WMF) bổ sung Ta Som vào dự án của họ, nhóm WMF bắt đầu lập hồ sơ và diễn giải địa điểm và tiến hành ổn định khẩn cấp các các cấu trúc mỏng manh và cải thiện dòng khách tham quan quanh di tích.

 

Năm 2007, tổ chức phi lợi nhuận thế giới Quỹ bảo vệ văn vật kiến trúc thế giới (WMF) và Cơ quan Quốc gia Apsara (ANA) đã tiến hành các công việc khai quang và lập hồ sơ cho phép kết nối ngôi già lam cổ tự Ta Som từ cả tứ diện. Nhiều khối đá sa thạch đã được sửa chữa và điều này cho phép tái thiết Mặt trận Trung tâm Bắc của Bắc Gopura.

 


Lip video

 

Ngôi già lam cổ tự Ta Som

 

https://www.youtube.com/watch?v=nSsED88YA-A

https://www.youtube.com/watch?v=nDmlu_68e-s

https://www.youtube.com/watch?v=gSQ-TdfBOWc

https://www.youtube.com/watch?v=x6pBHaOP12Q

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Khmer Tmes)

 



 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 15587)
Lịch sử Phật giáo đã có từ trên 2500 năm. Lúc đầu Phật giáo được triển khai từ Ấn Độ, rồi dần dần lan tràn ra hai ngả Bắc phương và Nam phương. Bắc phương là các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản, cùng các nước thuộc địa vực Tiểu Á Tế Á. Nam phương là những nước Tích Lan1, Miến Điện2, Thái Lan, Ai Lao3, Cao Miên4, đảo Java, Sumatra trong Nam Dương5 quần đảo và hiện nay Phật giáo đã được phổ cập hầu khắp các nước trên thế giới.
09/04/2013(Xem: 14995)
Ngày nay trên khắp các châu lục người ta đều biết đến Phật giáo là tôn giáo được phát nguyên từ Ấn Độ. Duy có điều để hiểu về quá trình hình thành, truyền bá và phát triển của Phật giáo là như thế nào,thì phải cậy đến sử học. Muốn hiểu lịch sử của một quốc gia, một tôn giáo v.v... điều cần yếu là sự thật. Nhưng thế nào là sự thật? Nhất là sự thật lịch sử. Bởi thường thì người ta hay đứng trên một quan điểm nào đó để viết sử; nếu thiếu tinh thần khách quan và trách nhiệm, sự thật của lịch sử cũng theo đó mà bị dị dạng!
09/04/2013(Xem: 3511)
Như chúng ta đã biết qua trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ, trong khi trưởng thànhđã chia thành hai thân cây lớn,một thân cây hướng về phía Nam, tức là Nam tôn Phật Giáo,trong thân cây hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo.
09/04/2013(Xem: 16232)
Ngày xưa khi còn là chú điệu, thỉnh thoảng đâu đó tôi có nghe người lớn nói về Tây Tạng, coi Tây Tạng như một nơi đầy những chuyện thần kỳ, huyền bí. Nào là ở Tây Tạng có “Phật sống”, có những “cậu bé” vừa tròn ba, bốn tuổi đã tự biết và nói trúng những gì thuộc về kiếp trước của mình. Có những vị Lạt-ma tọa thiền trên tuyết hồi lâu tuyết tự tan, hoặc nói là dân Tây Tạng sống chung với các vị Thánh có phép thần thông, dân Tây Tạng ai ai cũng tu niệm và đọc tụng thần chú đạt đến hiển linh v.v..
09/04/2013(Xem: 4026)
VNQL 2256/624 Trước TL (Đinh-Dậu) : Thái tử Tất-Đạt-Đa, vị Phật tương lai, giáng trần tại Kapilavastu, gần biên giới Nepal và Ấn Độ. VNQL 2274/606 B.C (Ất-Mẹo) : Vua Tịnh Phạn buộc Thái tử Tất-Đạt-Đa (19 tuổi) kết hôn với Công chúa Gia Du Đà La.
09/04/2013(Xem: 13725)
Có không ít người thường viện dẫn câu hỏi triết học: ‘Trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng’ để phủ nhận đạo lý nhân quả trước sau. Vì đứng từ nghĩa tuyệt đối, mọi sự vật trên thế gian này chỉ là vòng lẫn quẩn không có cái nào trước, cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy, trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của con người trở thành vô nghĩa?
09/04/2013(Xem: 4273)
Dựa vào một số tác phẩm Purāna (văn học của Bà-la-môn giáo)[1] và Harsacarita, chúng ta thấy rằng, vua Brhadratha chính là vị hoàng đế sau cùng thuộc triều đại Maurya. Vị vua này bị vua Pusyamitra xác hại để cướp ngôi. Vua Pusyamitra là người đã từng nắm chức tổng tư lệnh trong quân đội dưới triều đại của vua Brhadratha. Ông đã cướp lấy ngôi vua thuộc vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà) và sáng lập nên triều đại Śunga. Kinh Divyāvadāna (A-dục-vương truyện) còn ghi lại rằng, vua Pusyamitra là người thuộc triều đại Maurya
09/04/2013(Xem: 6359)
Vì có nhiều người thắc mắc việc Ðạo Phật biến mất trên đất Ấn Ðộ, nơi nó đã ra đời và lớn mạnh đến tuyệt đỉnh. Do đó, chúng tôi xin dịch bài này của tác giả là một người Ấn Ðộ, cũng là một người trưởng thành trong xã hôị Ấn Ðộ Giáo, dưới quan điểm của một học giả hiện đại để cống hiến qúy vị.
08/04/2013(Xem: 8796)
Đức Phật dạy: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn cũng như giáo lý của ta chỉ có một vị là giải thoát”. Mùi vị của nước trăm sông tuy có khác, nhưng chảy về biển cả thì chỉ là một vị mặn. Mục tiêu chính là Đức Phật xuất hiện ở đời là để giúp chúng sanh “chuyển mê thành ngộ” nghĩa là dứt bỏ những mê lầm tà vạy trở về con đường sáng giác ngộ chân lý, giác ngộ chân lý là được giải thoát.
08/04/2013(Xem: 17474)
Thật ngạc nhiên là ngay từ năm 1859 tức là hơn một thế kỷ trước, các học giả Âu châu đã quan tâm tới sự xuất hiện của các Bộ phái Phật giáo (PG) ở Ấn Ðộ, tuy nhiên họ chỉ nói tới tên của những phái này mà không bình luận gì cả. Bài viết sớm nhất là của St. Juliesn "Danh sách mười tám Bộ Phái Phật Giáo" đăng trong tạp chí Journal Asiatique vào năm 1859. Bài viết này được tiếp theo bởi M.V.Vasilief năm 1860, Rhys Davids và Oldenberg năm 1881, H. Kern năm 1884 và I.P.Minayeff năm 1884.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]